30/5/08

Chọn nghề phù hợp với tính cách


Chọn nghề phù hợp với tính cách

Ảnh: lnsclibrary.org.
Ngày sinh của bạn có thể ảnh hưởng đến tính cách và sở thích. Dựa trên những đặc điểm đó, bạn có thể tìm ra công việc phù hợp với mình.

Dương Cưu (21/3 - 19/4)

Tính cách: Tham vọng, sáng tạo, tự tin và độc lập. Bạn có thể hơi thiếu kiên nhẫn nhưng trí tưởng tượng và năng lượng dồi dào của bạn sẽ truyền cảm hứng cho người khác, khiến bạn trở thành một nhà lãnh đạo bẩm sinh.

Nghề phù hợp: Những người này sẽ thành công trong các lĩnh vực sáng tạo như báo chí, công chúng, xuất bản và quảng cáo. Những vị trí lãnh đạo trong quân sự hay hành pháp cũng phù hợp. Nên tìm các công việc cho phép bạn thỏa trí tưởng tượng và làm việc độc lập hay với tư cách lãnh đạo.

Kim Ngưu (20/4 - 20/5):

Tính cách: Thực tế, trung thành, đáng tin cậy và kiên nhẫn. Bạn thường có quan điểm mạnh mẽ nhưng cũng không dễ bị chọc tức.

Nghề phù hợp: Với bản tính ngăn nắp của bạn, bạn có khả năng thành công trong tài chính và kế toán. Những người Kim Ngưu nghệ sĩ cũng nên tìm việc trong lĩnh vực kiến trúc hoặc thiết kế phong cảnh.

Song Sinh (21/5 - 21/6):

Tính cách: Nhiệt tình, cởi mở, lạc quan và thích khám phá tìm hiểu. Bạn đầy sinh lực và nhiệt huyết, luôn thích tìm hiểu những điều mới lạ.

Nghề phù hợp: Do bạn luôn thích mày mò kiến thức, hãy tìm những công việc giúp bạn luôn học được điều mới. Hãy nghĩ đến công việc trong ngành khoa học, nghiên cứu, báo chí điều tra hay lĩnh vực cần đi du lịch nhiều. Song sinh cũng có bàn tay khéo léo nên có thể làm việc về xây dựng và nghề mộc.

Cự Giải (22/6 - 22/7):

Tính cách: Đầy lòng trắc ẩn, nghị lực, có trực giác tốt và trí tưởng tượng phong phú. Sự nhạy cảm, trung thành và kỹ năng tổ chức của bạn sẽ khiến bạn trở thành một người chăm sóc tuyệt vời.

Nghề phù hợp: Hãy hướng tới những nghề chăm sóc sức khỏe, công tác xã hội, tâm lý hay dạy học. Bạn cũng có thể nghĩ đến một công việc trong ngành luật, nơi bạn có thể bảo vệ và bào chữa cho người khác.

Sư Tử (23/7 - 22/8):

Tính cách: Tham vọng, tự tin, lạc quan, thẳng thắn và thân mật, thoải mái. Sự xuất hiện ấn tượng và hào phóng của bạn luôn khiến người khác bị hút về phía bạn.

Nghề phù hợp: Bạn sẽ cảm thấy thoải mái nhất trong vị trí lãnh đạo, nơi năng lượng của bạn được tỏa sáng. Hãy tìm một công việc trong ngành chính trị hoặc phim ảnh, hay kinh doanh tư nhân nơi bạn có thể điều hành người khác.

Xử Nữ (23/8 - 22/9):

Tính cách: Có óc quan sát, tỉ mỉ, thân thiện và chăm chỉ. Nhờ sự kiên nhẫn và bản chất phân tích của mình, bạn là những người giải quyết vấn đề rất hiệu quả.

Nghề phù hợp: Lối tư duy logic và hay tò mò của bạn khiến bạn trở thành ứng cử viên tuyệt vời cho các ngành như y tế, luật, nghiên cứu hoặc dạy học. Do Xử nữ luôn để ý đến từng chi tiết, họ dễ thành công trong lĩnh vực kế toán, thống kê và lập trình.

Thiên Bình (23/9 - 22/10):

Tính cách: Khéo léo trong giao tiếp, mơ mộng, dễ tính, sáng tạo và thích hòa đồng. Bản chất đáng tin cậy và thích giao du của bạn khiến bạn luôn được mọi người yêu mến.

Nghề phù hợp: Tư tưởng công bằng và quan tâm tới mọi người khiến bạn phù hợp với vị trí trong ngành dịch vụ công cộng, tổ chức từ thiện, luật và y tế. Bản tính tưởng tượng cũng dễ đưa bạn tới lĩnh vực nghệ thuật.

Bọ Cạp (23/10 - 21/11):

Tính cách: Có ý chí, có động lực, nghị lực và đầy nhiệt huyết. Sức mạnh tinh thần và sự tháo vát của bạn khiến người khác luôn cảm thấy yên tâm khi ở bên.

Nghề phù hợp: Sự hăng hái, động lực và khả năng phân tích của bạn khiến những lĩnh vực như chính trị, điều tra và quân sự phù hợp với bạn. Một công việc trong ngành tình báo, vật lý hay thiên văn học cũng phù hợp với bản tính tò mò của bạn.

Nhân Mã (22/11 - 21/12)

Tính cách: Tích cực, ưa phiêu lưu mạo hiểm, có nguyên tắc và chân thành. Bạn rất thích du lịch, học hỏi những điều mới và truyền bá những kiến thức mới học được cho người khác.

Nghề phù hợp: Vốn hay triết lý, bạn phù hợp với ngành khoa học, thần học, luật, chính trị và dịch vụ công cộng. Những nghề cho phép bạn đi du lịch cũng thỏa mãn sở thích của Nhân Mã.

Nam Dương (22/12 - 19/1):

Tính cách: Có trách nhiệm, kỷ luật, tham vọng và luôn thể hiện chủ quyền. Bản tính nghiêm túc và luôn có mục tiêu của bạn giúp bạn luôn thành công trong mọi công việc.

Nghề phù hợp: Giỏi trong tính toán và tiền bạc, bạn sẽ phát triển trong những ngành kinh doanh nơi bạn được đảm đương nhiều trách nhiệm. Một số Nam Dương cũng khéo léo với đôi tay nên sẽ phù hợp với ngành kỹ sư xây dựng.

Bảo Bình (20/1 - 28/2):

Tính cách: có tính đổi mới, bao dung, và nhanh trí. Sáng tạo và độc lập, bạn đặt ra những xu hướng mà người khác theo đuổi.

Nghề phù hợp: Óc thẩm mỹ của bạn giúp bạn thành công trong các ngành nghệ thuật như nhiếp ảnh, âm nhạc, viết lách và diễn xuất. Bảo Bình cũng là những người nhìn xa trông rộng nên phù hợp với ngành khoa học, hàng không và công nghệ máy tính.

Song Ngư (19/2 - 20/3):

Tính cách: Dễ thông cảm, kiên nhẫn, có óc nghệ sĩ và trung thực. Do bản tính nhân hậu và có trực giác, người khác thường tìm đến bạn để được giúp đỡ.

Nghề phù hợp: Lòng trắc ẩn của bạn khiến bạn phù hợp với ngành chăm sóc sức khỏe, công việc xã hội, tổ chức từ thiện hay khoa học thú ý. Óc thẩm mỹ và trí tưởng tượng của Song Ngư cũng giúp bạn thành đạt trong điện ảnh, sân khấu.

M.T. (theo MSN)
Nguồn: Vnexpress

28/5/08

Những điều không nên nói


Những điều không nên nói
Trong công việc, có một số điều bạn không nên nói ra với cấp trên và cả với đồng nghiệp. Vì những điều này sẽ chứng tỏ bạn chưa đủ chuyên nghiệp, chưa cố gắng hết sức mình, hoặc thậm chí, không có trách nhiệm với công việc. Hãy tham khảo những nội dung dưới đây để tránh nói những điều không nên nói này.

Đừng bao giờ nói: "Họ vẫn chưa gọi điện lại cho tôi" hay "Họ nói sẽ gọi điện lại sau". Cả hai câu nói này giống nhau ở chỗ đều… dở như nhau, bởi chúng cùng thể hiện rằng bạn chưa có được xác nhận của đối tác, rằng mọi việc vẫn giậm chân tại chỗ. Hãy suy nghĩ và tìm cách giải quyết sáng tạo hơn chứ không nên đợi chuông điện thoại. Bạn hãy tự mình nhấc ống nghe để gọi cho họ.

Đừng bao giờ nói: "Tôi cho rằng đã có người lo việc này rồi". Lời biện hộ kiểu này chỉ làm cho công việc thêm chậm trễ. Hãy cố tránh cách lập luận rằng chỉ cần có người làm việc này là tốt rồi. Nếu trước mặt bạn là nhiệm vụ, bạn nên thử tìm cách giải quyết. Nếu bạn không hiểu điều gì đó, cứ mạnh dạn đặt câu hỏi.

Đừng bao giờ nói: "Không ai nói việc này với tôi cả". Một khi cấp trên của bạn biết được bạn thường lặp lại câu nói đó, có lẽ ông ta sẽ có ấn tượng không mấy tốt đẹp về thái độ của bạn đối với các hoạt động của công ty. Có vẻ như bạn mù mờ về những sự việc đang diễn ra xung quanh, thậm chí bạn không biết sắp xếp công việc và thời gian theo mức độ ưu tiên cần thiết.

Đừng bao giờ nói: "Tôi đã có lúc nghĩ rằng…". Câu nói như vậy sẽ làm cho cộng sự, cấp trên, đối tác… mất hẳn mọi sự quan tâm đến bạn, và đó cũng là con đường ngắn nhất dẫn đến việc bạn bị sa thải.

Đừng bao giờ nói: "Tôi đã nhờ cô ấy chuyển lời rằng…". Thế thì sao chứ? Dù bạn đã nhờ ai đó truyền đạt lại điều gì đó, thì việc này vẫn không thể hiện được rằng bạn hoàn tất nhiệm vụ được giao, đồng thời không có nghĩa là hiện tại trách nhiệm thực thi công việc sẽ được chuyển cho người mà bạn nhờ chuyển lời. Một nhân viên kinh nghiệm thậm chí trong những tình huống khó khăn nhất cũng không đùn đẩy trách nhiệm cho người khác.

Đừng bao giờ nói: "Tôi không biết rằng ông không muốn tôi làm điều đó". Nếu bạn nói những câu đại loại như vậy thì có nghĩa là bạn chỉ có thể hành động khi có người nhắc nhở và khi các hành động của bạn bị cấp trên giám sát chặt chẽ.

Đừng bao giờ nói: "Tôi không có thời gian" hay "Tôi bận lắm". Khi nói câu này, bạn đã vô tình để lộ tính không chuyên nghiệp của mình. Kỹ năng hoàn tất nhiệm vụ đúng thời hạn là một đặc tính quan trọng của nhà quản lý thành công. Nếu bạn thanh minh cho việc không hoàn thành công việc là do không đủ thời gian thì bạn đang ký vào "bài điếu văn sự nghiệp" của mình đấy. Và trên tấm bia ở nơi chôn vùi sự nghiệp đó sẽ được viết lên dòng chữ: "Không có khả năng hoàn thành nhiệm vụ được giao".

Đừng bao giờ nói: "Tôi không biết rằng phải hỏi về chuyện này". Điều quan trọng nhất trong công việc là tiên liệu trước tất cả những việc cần làm. Yếu kém trong việc dự đoán và hoạch định tương lai cũng đồng nghĩa với việc bạn không nắm giữ được các đầu mối công việc trong tay mình. Nhà quản lý thành công cần thấy trước và tính trước được những bước hành động tiếp theo của công ty mình.

Đừng bao giờ nói: "Nhưng đến kỳ hạn đó chúng ta vẫn còn thời gian". Chẳng có ai thích tình trạng "nước đến chân mới nhảy". Nhà lãnh đạo biết rõ rằng việc hoàn tất kế hoạch vào phút chót sẽ không còn thời gian để đánh giá, kiểm tra hay sửa chữa sai sót nếu có. Hoạt động kinh doanh hiện đại không chấp nhận những sản phẩm thứ cấp.

Đừng bao giờ nói: "Nhưng đối tác nói là việc này sẽ được thực hiện đúng thời hạn". Vấn đề là việc này sẽ không xảy ra. Tại sao vậy? Bởi vì bạn không thể kiểm tra toàn bộ quá trình, không thể nhìn thấy hết những rắc rối phát sinh cũng như cách khắc phục chúng.

Đừng bao giờ nói: "Việc này phải được kết thúc vào lúc… và không cần bàn thảo gì thêm nữa". Thời hạn chỉ quan trọng khi mọi việc được hoàn thành và bạn cần theo dõi, cũng như điều tiết thời hạn đó theo đòi hỏi của tình hình thực tế.

Đừng bao giờ nói: "Theo tôi hiểu thì…". Đây là câu trả lời láu cá, bởi vì bạn đang cố tình lảng tránh sự thật. Khi nói câu đó, bạn đã thể hiện rằng bạn không phải là thành viên tham gia tích cực vào quá trình công việc, mà chỉ là người quan sát từ bên ngoài. Mà khán giả thì không được trả công bao giờ.

Đừng bao giờ nói: "Tôi sẽ làm việc này ngay khi nhận được trả lời từ…". Trong cuộc cạnh tranh ngày nay thì đây không phải là câu trả lời tốt nhất. Một khi bạn cảm thấy mình chỉ là cái đinh ốc nhỏ trong cả chiếc xe lớn thì bạn cũng sẽ không trụ được lâu với công việc.

Điều khẳng định này cũng đúng trong trường hợp thời hạn thực thi công việc bị kéo dài ra không phải do lỗi của bạn. Bắt tay vào việc đúng lúc, dành cho nó sự quan tâm thích đáng và nhận trách nhiệm về mình - đó chính là chương trình hành động của nhà quản lý thực sự.

Đừng bao giờ nói: "Tôi hứa rằng tôi sẽ làm việc này không chậm trễ". Tất nhiên là bạn sẽ làm thôi, chỉ có điều sau khi đã có ai đó buộc phải nhắc bạn. Như thế bạn đã chứng minh với mọi người rằng bạn là người không biết tổ chức công việc, và chỉ thực hiện khi được chú ý, nhắc nhở. Nếu bạn luôn hành động như vậy thì sự nghiệp của bạn sẽ có thể là 2 khả năng: thời gian của bạn dành cho công việc này sắp kết thúc, hoặc bạn sẽ không bao giờ được thăng chức.

Đừng bao giờ nói: "Tôi đã cố gắng liên lạc trong suốt thời gian này, nhưng…". Câu nói đó bây giờ không thể làm giảm bớt những lời phê bình, cảnh cáo. Người ta có thể hiểu là bạn không thể tự mình hoàn thành nghĩa vụ và chịu trách nhiệm về những công việc được giao, hoặc đồng nghiệp đã không còn muốn hợp tác với bạn nữa. Trong trường hợp nào thì điều này cũng có thể mang đến những chuyện không vui.

Đừng bao giờ nói: "Tôi không thể nào gặp được ông ta qua điện thoại". Đây là câu không bao giờ nên nói. Có lẽ bạn nghĩ rằng như vậy là bạn đang tỏ ra mình bận rộn với công việc chăng? Nhưng không đúng.

Nếu bạn cho rằng bạn "không thể gặp qua điện thoại" thì nghĩa là bạn đang ở… trên mây. Cần phải làm mọi việc để điều này không xảy ra, như sử dụng máy di động, máy nhắn tin, để lại số điện thoại… và việc liên lạc với đối tác sẽ không trở thành quá khó khăn đối với bạn. Còn nếu chỉ ngồi nghĩ ra lời giải thích thì bạn sẽ bất lực mà thôi.

Trong kinh doanh hiện đại, mọi thứ nói chung đã quá rõ ràng. Hành động tích cực - đó chính là chìa khóa đưa đến thành công. Còn những cản trở trên con đường đi của bạn thì bạn phải tự mình giải quyết lấy. Nếu bạn không thể tự mình làm đợc điều đó, thì vật cản lại chính là bản thân bạn.

Theo HRVietnam/Business World

21/5/08

Khích lệ nhân viên theo kiểu Ritz-Carlton


Khích lệ nhân viên theo kiểu Ritz-Carlton Nguyễn Tuyết Mai dịch từ Business Week

Tại các cuộc họp nhân viên của khách sạn và khu nghỉ dưỡng Ritz-Carlton luôn tràn ngập tiếng cười và sự vui vẻ. Ở đó, các chuyên gia quản lý đã áp dụng kỹ thuật khích lệ nhân viên nhằm phát huy sức mạnh của họ. Và bạn cũng có thể áp dụng chúng vào chính công ty của mình.

Được thành lập từ năm 1983 và là một công ty con thuộc tập đoàn Marriott International, từ hàng thập kỷ qua, Ritz-Carlton gắn kết chặt chẽ trong các hoạt động kinh doanh khách sạn và khu nghỉ dưỡng với sự hiện diện tại rất nhiều quốc gia trên thế giới.

Không có gì ngạc nhiên khi cái tên Ritz-Carlton thường xuyên xuất hiện trong các bảng xếp hạng những Nhà vô địch Dịch vụ khách hàng do nhiều tổ chức uy tín bầu chọn.

Hơn thế nữa, khi nghiên cứu về các nhà lãnh đạo truyền cảm, nhiều chuyên gia phân tích đã giành phần lớn thời gian của họ để tìm hiểu về vị chủ tịch Simon Cooper, người không ngừng tìm kiếm các giải pháp gắn kết hơn và có hiệu quả hơn trong việc khích lệ nhân viên, nâng cao sự thoả mãn của họ nhằm dẫn tới kết quả cuối cùng là cải thiện chất lượng dịch vụ khách hàng.

Mọi người có thể thấy rõ các chiến lược nhân sự của Ritz-Carlton và chủ tịch Simon Cooper trong các cuộc họp bàn nhân viên. Và những kỹ thuật khích lệ nhân viên hiệu quả này hoàn toàn có thể được công ty bạn áp dụng ngay tại văn phòng của mình.

Chia sẻ các câu chuyện tuyệt vời

Mỗi ngày, các nhân viên thuộc các phòng ban khác nhau tại từng khách sạn Ritz-Carlton trên toàn thế giới đều họp bàn và trò chuyện trong vòng 15 phút để chia sẻ các "câu truyện tuyệt vời".

Đây đều là các câu truyện thực của nhân viên Ritz-Carlton hướng tới những mong đợi dịch vụ khách hàng vượt trội. Chẳng hạn, một đều bếp khách sạn ở Bali phát hiện ra một loại trứng và sữa đặc biệt hữu ích cho một khách hàng rất dễ dị ứng thực phẩm tại một cửa hàng nhỏ trong một quốc gia khác và đã đặt hàng để đưa chúng tới Bali qua đường hàng không.

Hay bộ phận dịch vụ giặt là của một khách sạn Ritz-Carlton quên không tẩy một vết bẩn trên bộ vest của khách trước khi khách rời đi, thế là nhà quản lý khách sạn bay tới tận nhà của vị khách và tận tay trao tấm séc hoàn tiền chi phí giặt là bộ vest đó.

Sự chia sẻ các câu truyện giữa các nhân viên đạt được hai mục tiêu. Nó củng cố các kỹ năng cần thiết cho dịch vụ khách hàng. Quan trọng nhất, nó đem đến cho nhân viên một "niềm tự hào". Bất cứ nhân viên nào cũng muốn được đánh giá cao từ những đồng nghiệp của mình. Việc công khai các đánh giá và biểu dương nhân viên là một công cụ động viên mạnh mẽ.

Biểu lộ cảm xúc

Cảm xúc có tính lan truyền. Các nhà quản lý nào luôn nở một nụ cười trên khuôn mặt và thể hiện niềm đam mê công việc sẽ có được hiệu ứng mạnh mẽ lên những người khác.

Tại các cuộc họp bàn nhân viên thuộc khách sạn Ritz-Carlton, San Francisco, mọi người đều dễ dàng nhận ra hầu hết nhân viên đều sở hữu niềm hạnh phúc như nhau, không có sự phân biệt cấp bậc và đồng lương. Và đặc biệt, lòng nhiệt tình này bắt đầu ở những nhà quản lý cấp cao.

Vị quản lý cấp cao nhất ăn mặc chỉnh tề không chê vào đâu được trong bộ vest màu xanh, áo trắng, cà vạt tía và đôi giày đen bóng. Hình thức bên ngoài này thể hiện sự tôn trọng các nhân viên. Ông ta nói hết sức tình cảm: "Chào buổi sáng, các bạn của tôi".

Trong suốt buổi họp, nhà quản lý này luôn mỉm cười và thể hiện sự tôn trọng với tập thể nhân viên. Ông cho biết thực sự cảm ơn mọi người vì đã cống hiến hết mình cho công việc.

Đưa ra các giá trị then chốt

Tại bất cứ đâu, các nhà quản lý Ritz-Carlton không ngừng củng cố một trong 12 giá trị dịch vụ mà tất cả các nhân viên được mong đợi đưa vào công việc của họ. Chẳng hạn, ở khách sạn Ritz-Carlton, San Francisco, nền tảng chính là giá trị dịch vụ số 2: "Tôi luôn nhiệt thành với các nhu cầu và mong muốn cho dù được thể hiện hay không thể hiện của các khách hàng". Các nhân viên được khích lệ thảo luận về giá trị này trong mọi nhiệm vụ thường nhật của họ.

"Đâu là một mơ ước biểu lộ", nhà quản lý khách sạn hỏi tập thể nhân viên.

"Nếu khách hàng đề nghị thêm các chiếc gối", một nhân viên trả lời.

"Chính xác", nhà quản lý này nói, "Nhưng còn cả những mơ ước không được biểu lộ giúp tạo ra điều tuyệt vời tại Ritz-Carlton nữa". Vị quản lý tiếp tục đề cập tới ví dụ một nhân viên khách sạn chú ý tới chai rượu của khách đặt trọng hộp đá đã chảy hết và nhanh chóng thay đá mới trước khi khách yêu cầu. Câu hỏi được đặt ra sau đó: "Tại sao chúng ta làm thế? Tại sao chúng ta đi xa hơn những gì mong đợi?".

Một nhân viên xung phong trả lời: "Nó cho thấy chúng ta hết sức quan tâm tới khách hàng". Ngay sau đó, có tiếng trả lời khác: "Đúng như vậy. nó thể hiện sự quyết tâm của chúng ta hướng tới dịch vụ 5 sao"

Các nhân viên cần hiểu được hành động thường nhật của họ có tác động như thế nào lên khách hàng. Có thể họ sẽ có động cơ làm việc hiệu quả hơn. Hãy sử dụng các cuộc họp nhân viên để khích lệ theo cách thức này.

Tìm kiếm phản hồi từ nhân viên

Các nhân viên cần được động viên bày tỏ ý kiến của mình đối với đồng nghiệp hay với nhà quản lý cho dù ở bất cứ đâu vào bất cứ thời điểm nào. Tại mọi khách sạn Ritz-Carlton, các nhân viên được quyền tự do thảo luận về những vấn đề khác nhau, cho dù rất nhỏ nhặt, chẳng hạn như một hành lang nào sạch sẽ hơn các hành lang khác, hay tại sao mọi người lại ưa thích một vật dụng cũ hơn một vật dụng mới.

Thoạt nghe, có vẻ đây như là những bàn cãi hết sức bình thường. Nhưng điều đặc biệt chính ở nhà quản lý khách sạn. Vị quản lý này chăm chú lắng nghe như thế nội dung thảo luận là điều gì đó rất quan trọng với cuộc sống của mình: gật gù, chăm chú nhìn và hỏi nhiều câu hỏi. Ông ta thể hiện mối quan tâm sâu sắc tới chủ đề thảo luận. Nếu nó quan trọng với nhân viên, nó cũng quan trọng với nhà quản lý.

Khi được hỏi tại sao nhận được nhiều sự kinh trọng từ các nhân viên, vị quản lý khách sạn có thể trả lời ngay: bởi vì tôi lắng nghe các mối quan tâm của họ. Và họ biết được tôi luôn theo sát họ.

Biểu dương hiệu quả làm việc

Các nhà quản lý khách sạn tại Ritz-Carlton không tập trung vào những gì các nhân viên làm sai hay thiếu sót, thay vào đó họ hướng tới những giúp đỡ các nhân viên cải thiện kết quả công việc được giao. Các nhà quản lý sử dụng nhiều phương thức để công khai khen ngợi các nhân viên. Còn các phê bình được thực hiện riêng tư.

Những lời phê bình mang tính xây dựng cần được đưa ra xen kẽ những lời tán dương. Chẳng hạn như " Anh đã làm được một việc tuyệt vời tuần này khi giữ cách ấm cà phê khá sạch sẽ, nhưng có gì đó chưa được hoàn mỹ nhất. Hãy nỗ lực cải thiện nhé". Bằng việc đưa ra lời phê bình ở giữa những lời khen ngợi, các nhà quản lý sẽ truyền cảm hứng cho nhân viên vượt mọi mong đợi của khách hàng.

Từ những gì đang diễn ra tại Ritz-Carlton trên khắp thế giới, điểm mấu chốt được đúc kết: Sự động viên có thể và nên diễn ra ở bất cứ đầu trong mỗi công ty. Simon Cooper không thể tự mình khích lệ từng người trong số hơn 35.000 nhân viên khách sạn trên toàn thế giới. Vì thế, mọi việc phụ thuộc vào các nhà quản lý bộ phận để củng cố hình ảnh nhãn hiệu và các giá trị của khách sạn thông qua những giao tiếp thường nhật với tập thể nhân viên của họ.

Các nhân viên của công ty bạn có gắn kết với công việc? Họ có được truyền cảm hứng để theo đuổi mục tiêu chung của công ty? Các chất lượng dịch vụ 5 sao không bắt đầu từ họ. Nó được bắt đầu từ mỗi nhà quản lý cấp cao.

14/5/08

Để nhân viên tận tâm hơn với công ty


Để nhân viên tận tâm hơn với công ty

Làm sao để nhân viên tận tâm hơn với công ty? Câu hỏi đó không còn là mới đối với các nhà lãnh đạo. Xem quản lý như một nghệ thuật ứng xử với nhân viên có thể là một cách tiếp cận vấn đề này.

Người quản lý có thể làm gì để nhân viên tận tâm và gắn bó hơn với công ty của mình?

Người bạn thân của tôi - Judith Bardwick - vừa mới viết một quyển sách có tên: “Làm thế nào để chống lại sự khủng hoảng tâm lý làm tách biệt các nhân viên khỏi công ty và đe dọa hoạt động kinh doanh ở Mỹ" để giải đáp cho câu hỏi nói trên.

Tôi thích quyển sách này của cô ấy và yêu cầu cô ấy trả lời. Đây là những gì cô ấy đã cho tôi biết:

Như Viện Gallup - Gallup Organization[1] - cho rằng: các nhân viên đã có sự tham gia vào các tổ chức nhưng rời xa người lãnh đạo của mình.

Nói cách khác, trách nhiệm chính thuộc về nhà quản lý - đó là tạo ra sự tôn trọng và tin tưởng lẫn nhau giữa các nhân viên trong cùng công ty khi họ tiếp nhận công việc.

Khi một nhà quản lý lãnh đạo và quản lý con người có hiệu quả, những nhân viên dưới quyền sẽ trở nên tận tâm hơn và đem lại những kết quả tốt cho công ty đó.

Trên thực tế, khả năng quản lý hiệu quả thể hiện ở khả năng “nói đi đôi với làm”, tính minh bạch, tạo dựng mối liên lạc hiệu quả, đối xử với mọi người bình đẳng, chỉ bảo, lãnh đạo cấp dưới làm việc có hiệu quả ngày càng cao hơn.

Ngoài ra, việc trả lời cấp dưới với tư cách là một cá nhân có kinh nghiệm, luôn công bằng, tin tưởng và nhận thức được những gì mà nhân viên của họ đã đạt được cũng là một yêu cầu cần có của khả năng quản lý hiệu quả.

Người quản lý nào có mối liên hệ trực tiếp và thường xuyên với nhân viên cấp dưới thì sẽ thường xuyên biết được thông tin về thái độ của nhân viên của mình hơn là các quan chức cấp cao.

Những người quản lý đó luôn có một vị trí tốt nhất để biết những thông tin nói trên, chẳng hạn như khi nào nhân viên của họ cảm thấy bị cô lập và tách rời khỏi công việc chung - điều rất hay xảy ra và gây tốn kém chi phí hiện nay.

Việc nhân viên tận tâm hơn với công việc sẽ làm tăng lợi nhuận của công ty, bởi vì nhân viên sẽ ở lại lâu dài hơn, nỗ lực nhiều hơn và thu hút khách hàng hơn.

Hoạt động kinh doanh của công ty sẽ tăng trưởng mạnh mẽ khi các khách hàng gắn bó với công ty và khi ban quản trị, các nhà quản lý và nhân viên là một khối thống nhất, hợp tác với nhau cùng hướng đến mục tiêu chung.

Nhưng các nhà quản lý vẫn thường được gọi là "những nhà quản lý trung gian" bởi một lý do tốt đẹp sau: công việc chính của họ là thúc đẩy và hướng dẫn cấp dưới, đồng thời chịu sự quản lý của các lãnh đạo cấp cao.

Do có vị trí trung gian như vậy nên để có thể hỗ trợ đắc lực và hiệu quả cho các bản báo cáo trực tiếp, các nhà quản lý thường phải tạo mối quan hệ với "đồng minh" tiềm năng, đặc biệt là những người có quyền lực cao, có vai trò ra quyết định cuối cùng.

Cụ thể hơn, muốn tạo ra những thay đổi cần thiết để nâng cao sự tận tâm của nhân viên trong tổ chức, người quản lý cần phải:

Chuẩn bị các bài phát biểu tự quảng bá bản thân, trong đó nêu ra hai hoặc ba điểm quan trọng mà bạn yêu cầu ở nhân viên của mình

Trước hết truyền đạt thông điệp này tới những người ủng hộ bạn. Người quản lý phải thực hiện chiến lược nâng cao tầm ảnh hưởng của mình thông qua những người này và tạo ra những "đồng minh", những người có tầm ảnh hưởng và quyền lực cao hơn.

Cuối cùng, bạn cần phải phối hợp với những "đồng minh" đó. Sự phối hợp hiệu quả không nhất thiết lúc nào cũng phải có giữa những người có cùng ý kiến.

Bạn sẽ rất sáng suốt nếu tuân theo những bước cụ thể sau:

1) Chuẩn bị các tư liệu, thông tin liên quan tới việc đạt được lợi ích tài chính khi các nhân viên nhiệt tình và quan tâm tới công việc.

2) Kêu gọi sự tán thành của một số các thành viên trong ban giám đốc đủ để quyết định được thông qua. Bạn không cần phải chờ đợi sự đồng thuận của tất cả, mà chỉ cần có đủ đồng minh để quyết định được chấp thuận.

3) Xác định một số mục tiêu dễ đạt được ban đầu. Sự thành công sẽ thúc đẩy quá trình thay đổi và giúp bạn có thêm nhiều đồng minh hơn.

- Trích chuyên mục “Ask the Coach” của Marshall Goldsmith trên trang Harvard Business Online -
Nguồn: Tuanvietnam.net

13/5/08

6 sai lầm khi chọn người kế nhiệm


6 sai lầm khi chọn người kế nhiệm
Hai nhà tâm lý - xã hội học tổ chức Melvin Sorcher và James Brant tiếp tục chia sẻ về việc chọn lựa người đảm nhiệm vị trí chủ chốt thay thế lãnh đạo trong doanh nghiệp.

Tình hình doanh nghiệp Việt Nam hiện nay đang có nhiều biến chuyển. Người lãnh đạo trực tiếp trước đây của doanh nghiệp đang chuyển dần thành một nhà đầu tư theo công thức kinh doanh đa ngành và “lên” tập đoàn.

Mọi người đều ra sức chọn cho mình một vị trí kế nhiệm xứng đáng. Nhưng kinh nghiệm cho thấy người ta thường rơi vào cái bẫy sai lầm khi ra quyết định do họ chỉ nắm được những thông tin sai lệch, bị bóp méo. Họ bị “hoa mắt” khi quá đề cao một số phẩm chất - kỹ năng và coi nhẹ những điểm quan trọng khác. Cụ thể, họ thường mắc phải những sai lầm sau:

Đề cao những người có kỹ năng làm việc theo nhóm tốt (good team player). Trên thực tế, những người quản lý theo kiểu “đồng thuận, nhất trí” thường dễ leo cao nhanh chóng trong cơ cấu tổ chức. Sếp của họ hài lòng vì họ giúp cho phòng ban, bộ phận, nhóm của họ vận hành suôn sẻ. Nhưng những “good team player” như trên không thể là những nhà lãnh đạo xuất sắc.

Thực tế những nhà lãnh đạo giỏi không phải là những người làm việc theo nhóm, ngược lại họ còn không thấy cần thiết phải làm việc trong nhóm. Họ muốn người khác phải làm việc theo nhóm còn bản thân họ thì suy nghĩ độc lập, tự mình ra những quyết định mà không cần phải luôn luôn nghe ý kiến của mọi người.

Các nhà lãnh đạo xuất sắc chấp nhận rủi ro khi dám chọn những người không giống họ, thậm chí những cấp dưới có phong cách quản trị hoàn toàn khác họ. Họ dám chấp nhận “đánh liều” với những người chưa được kiểm tra đầy đủ, chỉ có thể đánh giá sơ bộ mà thôi. Cuối cùng, những nhà lãnh đạo giỏi không cảm thấy vị trí của họ bị đe doạ khi dưới quyền họ có những người thông minh hơn, có kinh nghiệm hơn họ.

Đào tạo kỹ năng thực hành cho người kế nhiệm. Đó là một quan niệm sai lầm nữa của các nhà lãnh đạo. Họ thường cố “cầm tay chỉ việc”. Thực ra, nhiều nhà lãnh đạo thành công làm theo cách khác hẳn. Họ chọn lựa ra người kế thừa mạnh mẽ, mạnh dạn giao phó công việc và trách nhiệm, tạo cơ hội cho cấp dưới phát huy mọi khả năng, học hỏi từ những sai lầm có thể xảy ra.

Đánh giá cao những người triển khai công việc giỏi, giải quyết vấn đề tốt là xu hướng của đa số các CEO và những nhà quản trị cao cấp. Tuy nhiên, dù họ là tài sản quý trong tổ chức, song thường họ không phải là những nhà lãnh đạo tiềm năng.

Lý do ở đâu? Thông thường, những người tác nghiệp tốt như trên có xu hướng dựa vào hệ thống, chính sách, quy trình làm việc… đã có sẵn, đồng thời kỳ vọng những người khác cũng làm việc như vậy. Họ sẽ thành công cho đến khi… được thăng chức, trở thành lãnh đạo. Khi ấy, chính tính cách của họ sẽ “bóp nghẹt” các ý tưởng sáng tạo.

Khả năng giải quyết vấn đề cũng là một trở ngại trong công việc tư duy chiến lược, vốn mang tính khái niệm và dài hạn.

Đề cao những người có khả năng ăn nói giỏi, những người có khả năng thuyết trình trước đám đông cũng là đặc điểm thường gặp của nhà quản trị cấp cao.

Rõ ràng kỹ năng này là quan trọng, song thực ra nó có thể được học tập, rèn luyện qua sự đào tạo tích cực, quy củ. Mà thực ra thiếu kỹ năng này không hề là lý do cho thất bại của một nhà lãnh đạo. Có một khuyết điểm khó sửa hơn mà người ta hay bỏ qua, đó là thiếu khả năng thuyết phục, động viên, truyền cảm hứng không chỉ đối với các đám đông, nhóm người, mà còn trong các cuộc tiếp xúc tay đôi, trò chuyện cá nhân - thì các nhà lãnh đạo khó mà kết nạp được những người họ cần vào tổ chức.

Cho rằng những người có tham vọng lớn sẽ có khả năng lãnh đạo, thiếu tham vọng khiến bạn khó có cơ hội thăng tiến. Các sếp thường lấy lý do “tôi không chắc anh ta/cô ta tham vọng đến đâu”, hay “hình như nhân viên đó thiếu “lửa” trong công việc” khi không chọn lựa ai đó để cất nhắc. Vấn đề ở đây là đôi khi người ta quên mất rằng họ đang đánh giá sai tham vọng của người khác. Thực tế, nét chung của nhiều nhà lãnh đạo là phẩm chất khiêm nhường, chứ không phải là tham vọng một cách rõ ràng, lộ liễu.

Ưu tiên cho những ứng viên có sự tương đồng và quen thuộc với mình. Nhiều nhà quản trị cấp cao có xu hướng ủng hộ những ứng viên có nguồn gốc, kinh nghiệm, tính cách… tương tự như của họ. Đôi khi có những ứng viên rất hứa hẹn bị gạt đi chỉ vì khác biệt về chủng tộc, giới tính, nguồn gốc xã hội, tôn giáo, quê quán… hay chỉ do họ chưa từng nắm giữ những vị trí tương tự mà thôi. Thực ra, những phân biệt trên là sai. Cần có thêm điều tra, tìm hiểu kỹ lưỡng.

Đôi khi ngay cả những chi tiết nhỏ nhặt cũng có thể trở nên quan trọng. Một người thấp bé hay quá mập; bị coi là “lôi thôi, nhếch nhác” trong cách ăn mặc cũng cần được xem xét cụ thể cho vị trí kế nhiệm. Điều quan trọng là cần phải thật khách quan và khoa học trong việc “chọn mặt gởi vàng”.

(Theo SGTT)

Doanh nhân mới kết quả và thách thức


Doanh nhân mới kết quả và thách thức
Cùng với quá trình đổi mới, một đội ngũ đông đảo những doanh nhân mới, những Giám đốc, Chủ tịch HĐQT của các doanh nghiệp tư nhân mới được thành lập đã hình thành và phát triển nhanh chóng. Nếu chỉ tính những doanh nghiệp đã đăng ký hợp pháp theo Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân tử l990 - l999 là 45.005 và 14.400 doanh nghiệp được thành lập trong năm 2000 thì số doanh nhân đã tăng lên đáng kể. Nêu tính cả các doanh nghiệp gia đình, cá thể đăng ký ở huyện, quận, hoạt động chủ yếu ở địa phương, có quy mô không nhỏ thì con số đó còn cao hơn nữa, khoảng 400.000 - 500.000 đơn vị. (Việc phá sản doanh nghiệp theo Luật phá sản doanh nghiệp xảy ra rất ít và không được công bố nên chưa biết chắc chắn số doanh nghiệp hiện còn đang hoạt động là bao nhiêu). Tuy vậy, so với mức bình quân của nền kinh tế thị trường có một doanh nghiệp trên 50 người dân thì con số đó ở Việt Nam với 8 triệu dân còn quá nhỏ bé và hoàn toàn không có lý do gì đế lo ngại là đã có quá nhiều doanh nghiệp và doanh nhân.

Để minh họa phân đóng góp của doanh nghiệp, xin đơn cử con số 300.000 việc làm đã được tạo ra bởi các doanh nghiệp mới được thành lập năm 2000, tương đương với tổng số việc làm do khu vực dầu tư nước ngoài đem lại trong 10 năm với số vốn to hơn gấp rất nhiều lần. Điều này chúng tỏ khu vực kinh tế dân doanh đang trở thành giải pháp chủ yếu để tạo việc làm trong nền kinh tế.
Đứng về vị trí xã hội, đây là một cuộc đổi đời lớn, theo hướng tiến bộ vì việc hình thành lực lượng doanh nhân góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển. Từ chỗ không được pháp luật thừa nhận, (thậm chí có thời bị lên án và xua đuổi dưới dạng "phe phảy", đến chỗ được thùa nhận và được tôn vinh ở mức độ khác nhau, tuỳ theo các ngành và địa phương, tuy còn hạn chế, là một bước tiến về chất. Cho đến hiện nay, tuy những thành kiến xã hội đối với doanh nghiệp tư nhân đã giảm nhiều song không phải không còn nặng nề. Cách gọi có tính chất kỳ thị như "bọn tư thương” vẫn được sử dụng ở không ít nơi. Theo điều tra của MPDF - Dự án phát triển Mekong năm 1999 thành kiến dối với doanh nghiệp tư nhân vẫn còn khá nặng nề. Báo chí thường mô tả doanh nghiệp tư nhân đồng nghĩa với buôn lậu, lừa đảo, trốn thuế… và để lại ấn tượng xấu cho Sinh viên tốt nghiệp mới ra trường tới mức chỉ có số rất ít sẵn sàng nhận việc làm ở khu vục tư nhân. Trong năm 2000 do ủng hộ và hưởng ứng luật Doanh nghiệp, chiều hướng này có dịu bót nhưng chưa phải đã hết.

Mặt khác, chính sự tồn tại những thành kiến như vậy lại càng nói lên sự dấn thân và dũng cảm của người doanh nhân ở nước ta trong thời kỳ đồi mới. Họ đã từ bỏ lựa chọn truyền thống là dựa vào Nhà nước để có thu nhập bảo đảm mà tự chọn cho mình con đường không chỉ đầy mạo hiểm của kinh tế thị trường mà còn phải vượt qua nhiều thành kiến không có căn cứ và sư thiếu công bằng trong sự đánh giá của xã hội, thậm chí của bản thân thành viên trong gia đình. Đấy là một phẩm chất tốt đẹp mà Đoàn TNCS Hồ Chí Minh với phong trào tự lập thân, lập CLB doanh nghiệp trẻ đã có sáng kiến ủng hộ. Sáng kiến này cần được công luận hoan nghênh và hưởng ứng.

Có thể kể ra những đức tính tốt đẹp khác của doanh nhân để có thể tồn tại và thành đạt như sự kiên trì và khả năng vượt khó, năng lực biết chịu đựng, biết thỏa hiệp để đưa doanh nghiệp tiến lên.

Cuộc điều tra về tinh thần kinh doanh (entrepreneurship) do Viện nghiên cứu quản lý kinh tế TW cùng phối hợp với tổ chức JICA (Nhật Bản) tiến hành trong khuôn khổ Dự án Ishikawa năm 2000, đối với 481 doanh nghiệp dân doanh đã thu được một số tư liệu đáng chú ý sau đây.

Thứ nhất là tỷ lệ phụ nữ làm chủ doanh nghiệp chiếm 21% là tỷ lệ khá cao so với doanh nghiệp Nhà nước. Điều này rất đáng mừng vì nó chứng tỏ sự vươn lên mạnh mẽ của phụ nữ, khắc phục khó khăn nhiều hơn nam giới để thành đạt trong kinh doanh.

Thứ hai, là độ ngũ doanh nhân này trẻ hơn so với đội ngũ Giám đốc doanh nghiệp Nhà nước. Có 4,7% từ tuổi 19 - 29 là tuổi khó có thể có trong hàng ngũ Giám đốc doanh nghiệp Nhà nước. Lứa tuổi từ 30 - 49 chiếm 62,1%, tức là chiếm đa số doanh nhân. Nếu giả định rằng họ đã bắt đầu kinh doanh, lập nghiệp từ khi bắt đầu công cuộc đồi mới, thì đa số doanh nhân dã bắt đầu kinh doanh từ khi mới tốt nghiệp Đại học. Lứa tuổi từ 50 - 59 chiếm 24,7% trong khi số trên 60 tuổi chiếm 8,4%. Như vậy, đội ngũ doanh nhân mới đang ở tuổi sung sức, cho phép họ tiếp tục học tập, tiếp thu cái mới.

Thứ ba, là đa số doanh nhân xuất thân từ cán bộ Nhà nước hay đã trải qua phục vụ trong quân đội. Tỷ lệ đã phục vụ trong quân đội là 11,2%, trong doanh nghiệp Nhà nước là 24,9%, trong các cơ quan Nhà nước khác là 20%, cộng lại là 56,1%. Chỉ có 16,6% đã hoạt động trong một doanh nghiệp ngoài quốc doanh khác, là l,2% trong doanh nghiệp nước ngoài. Điều này chứng tỏ có sự điều chỉnh đáng kể lực lượng quản lý từ khu vục Nhà nước trong khu vực dân doanh. Đó cũng là điều bình thường vì trước đây, khu vực Nhà nước chiếm vị trí quan trọng nhất và tỷ lệ lớn nhất, thu hút và sử dụng tuyệt đại đa số lực lượng lao động được đào tạo, khi xuất hiện khu vục dân doanh, việc chuyển dịch lực lượng như trên là điều tự nhiên và cũng phù hợp với kinh nghiệm quốc tế. Đáng chú ý là có đến 40,5% doanh nhân cho biết trong gia đình họ có đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam. Điều này chứng tỏ quá trình đổi mới tư duy diễn ra không chỉ giữa các thế hệ mà trong cả tùng gia đình.

Nguồn gốc của gia đình và của bản thân doanh nhân cho thấy không có sự khác biệt xã hội nào lớn giữa doanh nhân trong doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp dân doanh về nguồn gốc xã hội và gia đình. Do vậy, nhưng thành kiến về doanh nhân trong khu vực dân doanh không có căn cứ về mặt hoàn cảnh xà hội và nguồn gốc gia đình. Họ cùng một nguồn gốc, đã từng làm việc trong quân đội và doanh nghiệp Nhà nước, cơ quan Nhà nước, nay chỉ thay đổi hoạt động mà thôi.

Thứ tư, trình độ học vấn của số doanh nhân này tương đối khá, tạo cơ sở để học có thể tiếp tục học tập. Có 11,7% chưa tốt nghiệp phổ thông 12 năm, có 28,4% có bằng Đại học, 15,3% có thêm các chứng chỉ đào tạo chuyên ngành, 36,8% có bằng cử nhân. Cộng lại, tỷ lệ doanh nhân đã trải qua đào tạo Đại học và chuyên môn đạt 80,5%, một tỷ lệ cao so với các nước Đông Nam Á. Mặt khác, chỉ có 0,6% có bằng Thạc sĩ và 0,8% có bằng Tiến sĩ.

Thứ năm, 92% số doanh nhân là người Kinh, 6, 9% là người Việt gốc Hoa, 0,7% là người dân tộc và 0,4% là Việt kiều.

Cả hai nhóm thông tin sau này cần được xem xét trong một thực tế là các doanh nghiệp mới phát triển chủ yếu ở khu vực thành thị tập trung ở các đô thị lớn nơi người Kinh sinh sống là chủ yếu và tỷ lệ được đào tạo cao, khu vực nông thôn, miền núi và dân tộc ít người ít có doanh nghiệp thanh lập và hoạt động. Đó là một hạn chế lớn cần được khắc phục trong quá trình phát triển trong tương lai.

Động cơ kinh doanh và nhận thức của doanh nhân

Tỷ lệ lớn nhất trong các câu trả lời về động cơ kinh doanh là “muốn làm gì có ích cho xã hôi" (chiếm 4l,4%), trong khi 23,7% trả lời “tôi muốn tự quyết định công việc của mình” và l3,5% trả lòi "tôi muôn phát huy tối đa năng lực của mình", trong khi chỉ có 16,4% trả lời "đó là tiếp tục công việc của gia đình hiện nay". Như vậy hai nhóm động cơ chính là trách nhiệm của doanh nhân trước cộng đồng (41,4%) và phát huy năng lực cá nhân (37,2%) chứng tỏ nhân cách mạnh và đúng đắn của người doanh nhân, vượt trội hơn nhiều so với 9,7% xác định động cơ là muốn kiếm thêm nhiều tiền hơn (mặc dầu đấy cũng là một động cơ rất chính đáng, không có gì đáng phê phán) hay 5,1% cho rằng công việc trước của họ không thích hợp và chỉ có l,3% là kinh doanh vì không có việc làm. Điều này cho thấy trách nhiệm và ý thức xã hội khá cao của các doanh nhân. Họ kinh doanh trước hết không vì các động cơ cá nhân, mặc dầu động cơ này là chính đáng. Xu hướng tự lập thân, tự suy nghĩ độc lập, phát huy và khẳng định năng lực và nhân cách cá nhân là mạnh trong các doanh nhân Việt Nam. Chính cái mới ở đây là họ khẳng định cá nhân mìnhđể đóng góp cho xã hội, khác với triết lý thời trước đây đòi hỏi cá nhân phải xả thân mình, hy sinh cá nhân mình để đóng góp cho xã hội. Đó cũng là nét mới rất đáng mừng cho doanh nhân trong khu vực dân doanh. Đấy cũng là điều rất độc đáo Việt Nam và đã được các chuyên gia Nhật Bản ghi nhận.

Mức độ hài lòng với kết quả kinh doanh là tương đối cao, có đến 22,9% cho là "rất hài lòng" và 9% là “tương đối hài lòng", cộng lại đạt 81,9% là mức độ thành công tương đối cao so với một nền kinh tế chuyển đổi trong khi có l5,7% cho rằng kết quả tương đối không hài lòng và 2,3% trả lời rất không hài lòng. Điều này cũng phù hợp với câu trả lời về cách sử dụng lợi nhuận thu được: có đến 63,2% trả lời muốn dùng lợi nhuận để mở rộng kinh doanh hiện nay và 3,8% muốn dùng để "mở ra một doanh nghiệp mới".

Song, điều này lại mâu thuẫn với câu trả lòi về cách mở rộng kinh doanh. Trong khi chỉ có 14% muốn “mở rộng tối đa doanh nghiệp" thì có tới 68,3% trả lòi "mở rộng kinh doanh từng bước".

Mâu thuẫn này có thề giải thích được như sau: Chúng ta có một đội ngũ doanh nhân có ý thức xã hội và tinh thần tụ lập cao, bước đầu thành công trong kinh doanh nhưng môi trường kinh doanh chỉ cho phép họ mở rộng kinh doanh một cách thận trọng mà thôi. Môi trường kinh doanh bên ngoài chưa cho phép họ phát huy tối da trí sáng tạo của họ.

Những hạn chế và thách thức

Trong một điều tra khác tiến hành đối với 452 doanh nghiệp trên l8 thành phố của Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương trong năm 2000, bên cạnh những phát hiện thống nhất với điều tra trên về tỷ lệ nam, nữ, về tuổi doanh nhân… cũng đã phát hiện những yếu kém hay hạn chế trong kinh doanh của doanh nhân nước ta hiện nay.

Trong 10 lĩnh vực về năng lực và hiểu biết của doanh nhân thì doanh nhân tự trả lời hiểu biết về huy động vốn và xuất khẩu là yếu nhất, tỷ lệ tự cho là có năng lực đều dưới 5% có 0% doanh nhân điều hành hộ kinh tế cá thể được hỏi tự cho mình có hiểu biết về xuất khẩu.

Nếu kết hợp với những điều tra khác, ta thấy năng lực về ngoại ngữ, tiếp thị quốc tế và xuất khẩu là những yếu kém rất đáng lo ngại của doanh nhân chúng ta hiện nay. Yếu kém này cần được hết sức quan tâm khi các cam kết hội nhập đến gần và những năng lực ke trên lại hết sức cần thiết cho doanh nhân trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, vươn ra thị trường nước ngoài. Một mặt, cần bồi dưỡng kiến thức hiện đại về tài chính, tiền tệ, thị trường quốc tế, tiếp thị, năng lực cạnh tranh… mặt khác, cần nhanh chóng phát triển hệ thống thị trường tài chính, tiền tệ và dịch vụ về tiếp thị và xúc tiến thương mại để doanh nhân có điều kiện bù đắp những lỗ hổng trong kiến thức của mình.

Việc phân tích kỹ hơn năng lực quản lý dựa trên các yếu tố thành công trong kinh doanh được tiến hành theo bốn nhóm câu hỏi sau:

Tỷ lệ gia tăng người lao động trong ba năm gần đây?
Mức độ hài lòng và thu nhập theo sự tự đánh giá của doanh nhân.?
Mức độ sai lệch giữa dự kiến với doanh số cũng như lợi nhuận thực hiện được?
Tự đánh giá về thành công và sai lầm?
Sự phân nhóm trên được đối chiếu với hai yếu tố chính là: tính sáng tạo, năng lực vạch kế hoạch.

Phân tích cho thấy những doanh nhân thành công là những doanh nhân có năng lực sáng tạo, tìm cách làm khác với cách làm truyền thống và có năng lực vạch ra kế hoạch kinh doanh liên ngành, với nhiều đối tác khác nhau.

Nhận thức này cho thấy cần phải nhấn mạnh năng lực sáng tạo và kế hoạch hoá trong đào tạo, bồi dưỡng doanh nhân Việt Nam.

Những yếu kém khác cần được khắc phục là năng lực điều hành doanh nghiệp có quy mô tương đối lớn, hiểu biết về tâm lý và xã hội học trong quản lý, đàm phán.

Một yếu kém khác của doanh nhân là thiếu thông tin về môi trường pháp luật, môi trường kinh doanh rộng lớn hơn. Hệ thống dịch vụ cung cấp và xử lý thông tin cần được phát triển với chất lượng cao hơn và chi phí có thể chấp nhận được để doanh nhân có điều kiện đáp ứng nhu cầu thông tin của mình.

Những thành tựu ban dầu của thế hệ doanh nhân đầu tiên của công cuộc đổi mới là đáng khích lệ. Điều tra cho thấy doanh nhân trong khu vực dân doanh có cùng nguồn gốc xã hội như doanh nhân trong khu vực Nhà nước, có trách nhiệm xã hội cao, muốn đóng góp cho dân tộc và đất nước. Đó là những phẩm chất tốt đẹp rất cần được phát huy.

Song, những năng lực và phẩm chất vốn có chưa đủ để cạnh tranh trong quá trình hội nhập sắp tới. Bên cạnh nỗ lực của bản thân doanh nhân, cần đẩy mạnh cải cách, nâng cao vị trí xã hội của doanh nhân và khắc phục những thành kiến không công bằng vẫn tồn tại.

Theo Tạp chí Tia Sáng

12/5/08

Doanh nghiệp VN "săn lùng" CEO chuyên nghiệp


Doanh nghiệp VN "săn lùng" CEO chuyên nghiệp

CEO được xem là linh hồn của doanh nghiệp. Thật ra, Việt Nam có nhiều CEO thành công thuộc thế hệ thứ nhất. Chẳng hạn như Lê Phước Vũ, Trần Lệ Nguyên, Võ Quốc Thắng... tạo nên những thương hiệu nổi tiếng như Hoa Sen, Kinh Đô, Đồng Tâm...

Ông Lê Phước Vũ, Tổng giám đốc Tập đoàn Hoa Sen nhấn mạnh: “Tôi trải thảm đỏ mời các giám đốc điều hành (CEO)”.

Không riêng gì Hoa Sen, hiện nay nhiều doanh nghiệp Việt Nam đang săn lùng các CEO chuyên nghiệp. Theo các doanh nghiệp, đây là thách thức nhất trong việc chuẩn bị cho sự phát triển của doanh nghiệp.

CEO vừa thiếu vừa yếu

Sự phát triển của doanh nghiệp sẽ phá vỡ cấu trúc nội tại và doanh nghiệp cần khoác cho mình chiếc áo rộng hơn, chuyên nghiệp hơn. Khi đó, doanh nghiệp thực hiện tái cấu trúc toàn bộ doanh nghiệp, thay đổi hệ thống quản trị, tự nâng cao năng lực điều hành hoặc tìm người thay thế. Xu thế phổ biến là chủ doanh nghiệp tìm CEO thay thế mình điều hành.

Đặc điểm chung của những CEO này là rất giỏi, dạn dày kinh nghiệm, nhưng hạn chế về kiến thức, khả năng nhạy bén kinh doanh. Theo ông Vũ, khi trở thành những tập đoàn, công ty đại chúng, các CEO này không thể tiếp tục vai trò một cách đơn giản như trước đây mà cần áp dụng hệ thống quản trị mới.

Cũng theo ông Vũ, các doanh nghiệp rất khó trong việc tìm kiếm CEO vừa có tâm và tài. Thật ra tập đoàn này có thể chọn CEO nước ngoài, nhưng không phải ngại kinh phí mà Hoa Sen cần CEO người Việt để dễ dàng am hiểu môi trường kinh doanh, hệ thống luật pháp kể cả văn hóa Việt Nam.

Sở dĩ các doanh nghiệp “đỏ mắt” tìm CEO vì nguồn nhân lực CEO Việt còn ít về số lượng và tầm nhìn hạn chế. Theo các doanh nghiệp, những CEO thế hệ mới rất năng động, tiếp thu cái mới nhanh và được đào tạo bài bản nhưng thiếu kinh nghiệm thương trường. Ngược lại, CEO yêu cầu doanh nghiệp phải tạo điều kiện cho họ làm việc.

Kinh nghiệm từ giảng dạy và tiếp xúc với các chủ doanh nghiệp, Thạc sỹ kinh tế Nguyễn Hoàng Dũng, Giảng viên Quản trị doanh nghiệp cao cấp, Viện nghiên cứu kinh tế phát triển cho rằng, CEO phải được trang bị tối thiểu “5 T” mới đáp ứng được những mong đợi của các doanh nghiệp.

Ngoài 2 yếu tố đã nói là trình độ (tầm nhìn bao quát và chiến lược, hiểu biết sâu sắc chuyên môn và tính chuyên nghiệp) và tâm đức (đạo đức kinh doanh, tương đồng về văn hóa, thương hiệu), CEO cần có thêm thời gian vì phải đầu tư thời gian đáng kể cho công việc của doanh nghiệp. Đồng thời cần tiện nghi (những phương tiện, điều kiện vật chất để làm việc) và sự thông suốt (nghĩa là kết nối được tất cả những nguồn lực chủ yếu và đáng kể trong và ngoài doanh nghiệp).

Một đại diện khác trong Ban Lãnh đạo của Tập đoàn Hoa Sen nhận xét, CEO Việt khó thành công ở doanh nghiệpViệt Nam vì chưa có điều kiện cần và đủ để CEO làm việc. Đó là nhận thức về sự cần thiết tuyển CEO và hệ thống tổ chức, nhân sự để CEO làm việc hiệu quả. Không phải doanh nghiệp nào cũng cần CEO mà chỉ ở những công ty lớn, thành công.

Xung đột quyền lực

Tuyển CEO là nhu cầu cần thiết cho doanh nghiệp hay theo trào lưu? Ông này nói: “Nếu theo trào lưu thì doanh nghiệp chưa thật sự tạo điều kiện cho CEO làm việc. CEO không phải là thánh nhân mà cần các cộng sự giúp CEO hoàn thành nhiệm vụ được giao. Để thay đổi một tổ chức, hệ thống không phải một sớm một chiều!”.

Trở ngại nhất là đụng chạm quyền lực giữa CEO và chủ doanh nghiệp Việt Nam, theo ông Dương Xuân Giao, Giám đốc Công ty phát triển nguồn nhân lực NetViet, khi doanh nghiệp chọn CEO cần đưa ra những cam kết rõ ràng về trách nhiệm và quyền lợi. Nguyên tắc là chủ doanh nghiệp phải chia sẻ quyền lực và không can thiệp chi tiết vào công việc của CEO.

Ngược lại, CEO phải hiểu rõ mình là ai và cần làm gì. Ông cho biết, ở nhiều nước trên thế giới, các CEO đặt chữ tâm lên hàng đầu. Khi được tuyển dụng, CEO có những cam kết danh dự để phấn đấu hết mình cho sự phát triển của doanh nghiệp và quyền lợi của cổ đông.

Ông Đỗ Thanh Năm, Chủ tịch kiêm Giám đốc Công ty tư vấn và hỗ trợ chiến lược Win-Win cho rằng, chìa khoá của CEO hiện đại là quản lý và lãnh đạo doanh nghiệp dựa trên quyền uy, nghĩa là dựa trên năng lực thật sự và nhân cách của mình, không phải dựa trên quyền lực.

Ông Nguyễn Quốc Y, Giám đốc Marketing Công ty Cổ phần Phát triển nhà Thủ Đức, đánh giá hiệu quả của CEO gồm xây dựng hệ thống quản lý chuẩn (tái cấu trúc), hiệu quả kinh doanh (doanh thu, lợi nhuận), xây dựng thương hiệu. Song, không thể cùng lúc và trong một thời gian ngắn, CEO có thể đạt được 3 mục tiêu trên.

Vì vậy, tùy tình hình từng doanh nghiệp, chủ doanh nghiệp giao cho CEO chú trọng từng mục tiêu đề ra. Thạc sỹ Dũng cho rằng, để doanh nghiệp giảm thiểu rủi ro và sai lầm không đáng có, CEO và chủ doanh nghiệp phải cùng nhau hoạch định, tổ chức thực hiện, cùng nhau kiểm tra chương trình hành động và điều chỉnh chiến lược của doanh nghiệp.

Nguồn: TBKTVN

10/5/08

Năm Bước Xây Dựng Văn Hóa Công Ty Hoàn Hảo


Năm Bước Xây Dựng Văn Hóa Công Ty Hoàn Hảo

Những nhà lãnh đạo vĩ đại luôn truyền tải được nhiệt huyết vào công việc. Họ biết cách lôi kéo các nhân viên tài năng và tận tâm. Nhưng ẩn chứa đằng sau mỗi nhà lãnh đạo đầy quyền lực, bạn sẽ còn thấy có một quyền năng vô hình khác, nó góp phần tạo ra một bầu văn hoá công ty mạnh mẽ, động viên mọi người làm việc chăm chỉ và gắn bó lâu dài hơn, thậm chí có thể gắn bó cả cuộc đời, nối tiếp các thế hệ với công ty.

Cùng với thời gian và những bước phát triển mạnh mẽ, sự khác biệt duy nhất còn lại ngày nay giữa các công ty có lẽ chỉ là yếu tố văn hoá. Những yếu tố khác như công nghệ, quy trình kinh doanh hầu như không có sự khác biệt là mấy. Sở dĩ chúng ta phân biệt được giữa Mercedes và Toyota không phải ở chất lượng mà chính là ở nền văn hoá và hình ảnh nhãn hiệu công ty.

Văn hoá đã và đang trở thành một ID (chỉ số nhận dạng) của mỗi công ty, giúp chúng ta phân biệt công ty này với công ty khác. Văn hoá thể hiện trong phong cách làm việc, tác phong của nhân viên cả trong công việc cũng như trong cuộc sống. Không ít công ty còn xây dựng văn hoá của riêng mình trên cơ sở kế thừa văn hoá truyền thống dân tộc.

Nếu bạn đang tiến hành kinh doanh và là chủ doanh nghiệp, bạn phải xây dựng được một nền văn hoá công ty. Và thay vì để nó tự sinh sôi nảy nở ngoài tầm kiểm soát, bạn có thể nuôi dưỡng nó trở thành một yếu tố khích lệ lòng trung thành và tinh thần làm việc tràn đầy nhiệt huyết của các nhân viên.

Để xây dựng được một bầu văn hoá công ty mạnh mẽ, có sự tồn tại của nhiều niềm vui, sự chia sẻ, cộng tác và kết nối, bạn hãy thực hiện 5 bước đơn giản sau đây:

Bước 1: Thấu hiểu

Nền tảng của một văn hoá công ty mạnh không chỉ được xây dựng từ một vài bữa ăn trưa tập thể hay trong khu vực để xe cá nhân. Các nhà lãnh đạo vĩ đại luôn hiểu được những gì là quan trọng đối với các nhân viên.

Trên cương vị một nhà quản lý kinh doanh, việc phát triển một bầu văn hoá công ty mạnh ngay từ khi bạn tiến hành những bước đi đầu tiên là thực sự cần thiết để tìm hiểu xem điều gì động viện mọi người xung quanh làm việc cho bạn.

Quy trình thấu hiểu này sẽ bắt đầu với hoạt động giao tiếp. Hãy nói chuyện với các nhân viên trong công ty nhằm tìm hiểu về những gì mà cả bạn và các nhân viên đều mong đợi từ công việc.

Điều này sẽ giúp bạn gạn lọc rõ ràng những mong đợi của các nhân viên, đồng thời giúp bạn nắm được những gì sẽ động viên họ trong công việc. Nó cũng gửi đi một thông điệp tới các nhân viên rằng sự cộng tác và giao tiếp là hết sức quan trọng trong công ty.

Khi nói chuyện với các nhân viên, bạn sẽ thấy được những gì quan trọng đối với họ. Sự thấu hiểu này hoàn toàn có khả năng giúp bạn xây dựng và chia sẻ một bầu văn hoá công ty vui tươi thích hợp nhất với công ty, thay vì đơn thuần chỉ dựa trên các ý tưởng về những gì mọi người có thể thích thú.

Bước 2: Hành động

Khi bạn đã thấu hiểu các nhân viên trong công ty thì cũng đã đến thời điểm hành động. Bước đi tiếp theo này là rất quan trọng, bởi vì nó cho thấy bạn đang hành động vì những mong đợi của nhân viên và quan tâm tới trái tim của mọi người.

Hãy thử thực hiện một hành động đơn giản sau: Bạn hãy chia một tờ giấy A4 thành bốn phần bằng nhau, mỗi phần ghi lên đó 1 tiêu đề: vui vẻ, chia sẻ, cộng tác và kết nối. Đối với từng tiêu đề, bạn hãy huy động chất xám của tập thể để lên danh sách các hành động cần thực thi nhằm xây dựng và cải thiện bầu văn hoá công ty. Ví dụ, dưới tiêu đề “vui vẻ” bạn có thể có các hành động như một bữa ăn tối vào ngày thứ sáu, một buổi đi xem phim tập thể.

Khi bạn hành động, điều quan trọng là các hành động phải được đưa ra thực hiện một cách thích hợp. Thay vì làm tất cả mọi thứ trong một lần, bạn hãy thử thực thi một nhóm các ý tưởng chọn lọc mà bạn tin rằng bạn có thể thực hiện tốt.

Hãy nêu bật một vài đầu mục công việc từ danh sách các hành động mà bạn nghĩ rằng có thể thực hiện ngay. Những hành động còn lại bạn có thể làm từ từ theo thứ tự ưu tiên sau khi đã phân tích kỹ lưỡng.

Bước 3: Tham gia

Văn hoá công ty đến từ tất cả các nhân viên. Một bầu văn hoá công ty mạnh mẽ là một cái gì đó được bạn khởi xướng ra, rồi sau đó các nhân viên là những người tiếp tục xây dựng và phát triển nó.

Hãy hỏi các nhân viên xem họ nghĩ như thế nào để có thể góp phần vào thành công trong kinh doanh và xây dựng một bầu văn hoá công ty mạnh. Việc động viên mọi người đóng góp cổ phần cá nhân vào công ty cũng là một chiến lược nuôi dưỡng một văn hoá công ty mạnh và mọi nhân viên đều có bầu nhiệt huyết lớn trong công việc.

Khi điều này xảy ra, các nhân viên sẽ nỗ lực làm việc hơn rất nhiều chứ không chỉ đơn thuần thực hiện các nhiệm vụ thường nhật như trước nữa. Giờ đây, họ cảm thấy mình có trách nhiệm hơn với thành công của công ty.

Bước 4: Cộng tác

Tại giai đoạn này, các nhân viên nên được tham gia vào việc xây dựng văn hoá công ty. Giờ đã đến lúc để phát triển, đào sâu và thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa văn hoá công ty. Đây là nơi mà yếu tố cộng tác thực sự đóng vai trò quan trọng.

Hãy tạo ra những không gian cần thiết để các nhân viên có thể triển khai ý tưởng của mình. Điều này không có nghĩa rằng bạn cho phép các nhân viên đi lệch với định hướng chung của công ty.

Trên cương vị lãnh đạo, nhiệm vụ của bạn là giám sát và định hướng mọi nỗ lực sáng tạo trong công ty theo đúng các lộ trình thích hợp. Hãy động viên họ, nhưng đồng thời hãy thảo luận về các phương thức cụ thể nhằm biến ý tưởng thành hành động theo những kế hoạch hợp lý.

Các nhân viên cần hiểu rằng mọi đặc quyền và bổng lộc của họ sẽ đến từ kết quả công việc cụ thể. Đây là điều rất quan trọng. Những cá nhân nào tự xem mình như là một sự kỳ vọng của công ty sẽ có thể có những tác động ẩn chứa tiêu cực lên hoạt động của công ty. Việc giải trình về kế hoạch để đạt được những mục tiêu đề ra và đảm bảo một sự gắn kết thích hợp liệu có phải là trách nhiệm của tất cả mọi người trong công ty? Câu trả lời chắc chắn là “Có”. Nếu nhân viên nào không thể giải trình cụ thể, họ sẽ khó có thể đạt được mục tiêu.

Bước 5: Yêu cầu trách nhiệm giải trình

Văn hoá công ty không phải là điều gì đó chỉ được bắt đầu và sau đó bị phớt lờ đi. Cũng như một khu vườn được chăm sóc tốt, một bầu văn hoá công ty mạnh là kết quả của sự sáng tạo và ý thức nuôi dưỡng của tất cả mọi người. Hãy coi trách nhiệm giải trình phải là một phần trong bầu văn hoá công ty của bạn, thông qua các giao tiếp và hành động bắt buộc.

Thông qua trách nhiệm giải trình, bạn sẽ biết được sự nỗ lực của các nhân viên công ty không chỉ để thực thi các ý tưởng mới mà còn biết được hành động của họ có đáp ứng những mong đợi của bạn hay không, qua đó có thể thấy rõ văn hoá công ty bạn đang xây dựng hiệu quả ở mức nào.

Mối quan tâm và nhu cầu của các nhân viên sẽ thay đổi cùng với sự tăng trưởng của công ty. Hãy dành thời gian để đánh giá lại các yếu tố đầy tính nhân văn này và hãy khích lệ chúng nếu bạn thấy cần có sự thay đổi trong hành động.

Nguồn: Bwportal
Nguồn:honviet.com.vn

Khuyến Khích Xung Đột Có Tính Xây Dựng


Khuyến Khích Xung Đột Có Tính Xây Dựng
Không phải mọi sự xung đột đều mang ý nghĩa tiêu cực. Có những xung đột giúp nhà lãnh đạo rất nhiều trong việc đưa ra những quyết định chính xác và toàn diện hơn.
Nguyệt Ánh

Theo Practice of leadership

Xung đột có tính xây dựng là cần thiết cho việc tạo ra sự cam kết với các quyết định. Nếu mọi người chỉ cười, gật đầu và nói "vâng" trong tổ chức của bạn, thì có thể đã đến lúc phải bắt đầu cần những cuộc tranh luận.

Theo ông Michael Roberto, chuyên gia của trường kinh doanh Havard, việc thiếu các xung đột hữu ích - có tính chất xây dựng - trong tổ chức sẽ gây khó khăn cho việc đánh giá các ý tưởng kinh doanh và đưa ra các quyết định quan trọng. Tất nhiên, xung đột không có nghĩa là hăm doạ.

Tầm quan trọng của xung đột có tính chất xây dựng

Các nhà lãnh đạo nên tạo ra một môi trường của các quan điểm bất đồng có tính chất xây dựng nhằm cải thiện chất lượng của các quyết định và để nâng cao mức độ cam kết của các quyết định được đưa ra. Michael Roberto cho rằng: "Để cho các xung đột tích cực giúp bạn xây dựng các cam kết với quyết định, và do đó, tạo điều kiện cho việc thực thi".

Đây là hiểu biết chính mà thường dễ dàng bị xem nhẹ. Các xung đột tích cực đóng vai trò chính trong việc xây dựng sự gắn kết với tầm nhìn và mục tiêu nhóm.

Điều này nghĩa là, để trở nên hiệu quả, chúng ta cần thay đổi cách chúng ta đưa ra các quyết định quan trọng. Khuyến khích các quan điểm trái ngược có tính xây dựng trong quá trình ra quyết định sẽ tăng sự gắn kết của mọi người với quyết định. Hơn nữa, điều này sẽ đảm bảo cho việc thực thi hiệu quả hơn. Các nhà lãnh đạo cần đóng vai trò tích cực hơn trong việc khuyến khích mọi người đưa ra những quan điểm này.

Tất nhiên, việc diễn tả sự bất đồng có thể là điều rất khó khăn và không thoải mái cho bất kỳ nhà quản lý hay nhân viên cấp dưới nào. Do đó, nhà lãnh đạo không thể chờ đợi các ý kiến bất đồng tự đến với họ, mà họ phải chủ động đi tìm kiếm nó trong tổ chức.

Các nhà lãnh đạo có thể và nên tiến hành các bước vững chắc để xây dựng sự xung đột thành quá trình ra quyết định. Ví dụ, họ có thể đề nghị các nhà quản lý đóng vai trò là đối thủ cạnh tranh của tổ chức trong các cuộc họp. Hoặc họ có thể phân công ai đó đóng vai người không tán thành để chắc chắn rằng việc đánh giá dự án đã được tiến hành toàn diện trước khi tiến hành.

Bằng việc tiến hành các cuộc tranh luận sôi nổi và cởi mở, các nhà lãnh đạo sẽ biết được liệu mọi người có thực sự đồng ý với lựa chọn được đưa ra hay không.

Làm cho các xung đột có tính xây dựng

Để hiệu quả, các nhà lãnh đạo cần đảm bảo rằng xung đột duy trì tính chất xây dựng. Đó là, họ phải khuyến khích sự bất đồng hướng đến nhiệm vụ trong cuộc tranh luận trong khi cố gắng để hạn chế các xung đột cá nhân. Các nhà lãnh đạo có thể thực hiện điều này bằng việc tiến hành các bước vững chắc, trước, trong và sau một quá trình ra quyết định quan trọng.

Trước quá trình ra quyết định:

- Thiết lập quy tắc nền tảng về cách mọi người nên liên hệ với nhau trong suốt cuộc tranh luận.

- Làm rõ vai trò của mỗi cá nhân trong cuộc thảo luận.

- Xây dựng sự tôn trọng lẫn nhau.

Trong suốt cuộc tranh luận:

- Định hướng lại sự chú ý của mọi người và đưa ra tình huống trong một quan điểm khác.

- Trình bày các ý kiến và số liệu để nâng sự hiểu biết và phát sinh ra các hướng thảo luận mới.

- Gợi mở hướng giải quyết khi nhóm dường như lâm vào thế bế tắc.

Sau quá trình ra quyết định:

- Học từ các bài học có liên quan đến cách quản lý xung đột một cách có tính xây dựng.

- Hàn gắn các mối quan hệ bị ảnh hưởng vì sự không rõ ràng trong quá trình.

Kỹ năng làm chủ một cuộc đối thoại có tính chất xây dựng là cần thiết cho các nhà lãnh đạo.

Đảm bảo rằng quá trình ra quyết định là công bằng

Các xung đột có tính chất xây dựng đòi hỏi một quá trình ra quyết định công bằng. Tất cả mọi người có liên quan trong cuộc tranh luận cần cảm thấy rằng quá trình đi đến quyết định là rõ ràng và công bằng.

Nhưng để xây dựng các đóng góp, các nhà lãnh đạo cần nghĩ ra một quy trình công bằng. Trong quá trình ra quyết định, một vài cá nhân có quan điểm được nhóm thừa nhận, trong khi những dự án khác lại có thể ít được ủng hộ. Lãnh đạo một quá trình công bằng không có nghĩa là cố gắng để thoả mãn mọi người trong khi quyết định cuối cùng được đưa ra. Thay vì thế, nó nghĩa là tạo ra một quá trình mà trong đó, các nhà lãnh đạo chứng tỏ sự quan tâm thực sự đến quan điểm của người khác. Để mọi người tin rằng một quá trình là công bằng, họ phải:

- Có cơ hội để diễn tả quan điểm và thảo luận tại sao và họ bất đồng với các thành viên khác như thế nào.

- Cảm thấy rằng quá trình ra quyết định là minh bạch.

- Tin rằng người lãnh đạo lắng nghe kỹ lưỡng và xem xét quan điểm của họ một cách có cân nhắc và nghiêm túc trước khi đưa ra quyết định.

- Nhận ra rằng họ có cơ hội thực sự để ảnh hưởng đến quyết định cuối cùng của nhà lãnh đạo.

- Có sự hiểu biết rõ ràng về nhân tố căn bản của quyết định cuối cùng.

Dành thời gian trong các cuộc họp cho các trao đổi có tính chất xây dựng

Các xung đột có tính chất xây dựng và thảo luận cần phải có thời gian. Các nhà lãnh đạo cần cẩn trọng về việc cố gắng để tối đa hoá hiệu quả của cuộc họp của họ. Làm vậy, họ có thể chịu một hậu quả không chủ định trước. Chương trình quá tải, cùng với đòi hỏi cho hiệu quả, thường chống lại nỗ lực tốt nhất của nhà lãnh đạo với việc khuyến khích tranh luận.

Với một số người bất đồng, cần thời gian để có sự can đảm trong việc diễn tả quan điểm của họ hoặc để xác định một cách chính xác họ thích đưa ra quan điểm như thế nào. Lại có thể có những người muốn lắng nghe những người khác nói trước và có được sự hiểu biết tốt hơn về vấn đề trước khi đưa ra quan điểm của họ. Thảo luận diễn ra quá nhanh có thể sẽ không tạo ra sự thoải mái cho mọi người tham gia vào buổi thảo luận.

Làm cho mọi người có trách nhiệm

Để làm cho mọi người có trách nhiệm cần các quy tắc rõ ràng về sự gắn kết và làm rõ các hành vi có thể chấp nhận được. Việc nhà lãnh đạo rõ ràng trong cách mà họ muốn mọi người đóng góp và cư xử sẽ rất quan trọng trong quá trình ra quyết định.

Mọi người cần hiểu họ được trông đợi gì, cũng như họ có thể trông đợi gì vào người lãnh đạo. Nhưng quan trọng hơn, các nhà lãnh đạo cần duy trì các nguyên tắc, làm cho mọi người chịu trách nhiệm nếu họ vi phạm vào các quy phạm và quy tắc. Nếu ai đó sử dụng ý kiến bất đồng để tấn công cá nhân hoặc để cản trở việc thực thi sau đó, các nhà lãnh đạo cần chấn chỉnh. Các ý kiến bất đồng có thể là các cơ hội phát triển, họ có thể giúp các nhà quản lý và nhân viên học và cải thiện hoàn cảnh và cách làm việc nghèo nàn.

Nhu cầu có các xung đột có tính xây dựng nhằm nâng cao sự gắn kết và để hướng tới sự thực thi là một nguyên tắc lãnh đạo chủ chốt. Đó là một kỹ năng cần thiết để hướng tới kết quả trong các tổ chức ngày nay.
Nguồn: honviet.com.vn

9/5/08

Phát triển nguồn nhân lực của Việt Nam nhằm hướng tới tăng trưởng bền vững


Phát triển nguồn nhân lực của Việt Nam nhằm hướng tới tăng trưởng bền vững
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế là một tất yếu khách quan đối với nhiều quốc gia. Việt Nam là nước đang phát triển ở trình độ thấp thì đó là con đường duy nhất, không thể bỏ qua để rút ngắn thời gian ra khỏi tình trạng kém phát triển và đuổi kịp các nước đi trước. Trong xu thế toàn cầu hoá, nền kinh tế dựa chủ yếu vào tri thức sẽ tạo ra nhiều cơ hội phát triển cho các quốc gia, như là duy trì tốc độ tăng trưởng cao, sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực, đặc biệt là nguồn nhân lực, tạo nhiều công ăn việc làm, giải quyết tốt hơn các vấn đề xã hội, cải thiện đời sống người lao động. Song các quốc gia cũng đứng trước những thách thức lớn, trước hết là phải đối mặt với những vấn đề kinh tế- xã hội của một xã hội toàn cầu đầy biến động và cạnh tranh ngày càng khốc liệt; Lúc này ưu thế sẽ nghiêng về các quốc gia có nguồn nhân lực chất lượng cao, môi trường pháp lý thuận lợi cho đầu tư và một xã hội ổn định.
Trong điều kiện mới, sự phát triển của một quốc gia phụ thuộc vào nguồn lực trí tuệ và tay nghề của con người, nguồn nhân lực là chủ yếu, thay vì dựa vào nguồn tài nguyên, vốn vật chất như trước đây.
Các lý thuyết về tăng trưởng kinh tế gần đây cũng đã chỉ ra rằng động lực quan trọng nhất của sự tăng trưởng kinh tế bền vững chính là yếu tố con người, nguồn nhân lực. Nhưng con người phải được đầu tư phát triển, tạo lập kỹ năng, kiến thức, tay nghề, kinh nghiệm, năng lực sáng tạo để trở thành "nguồn vốn - vốn con người, vốn nhân lực".
Như vậy, phát triển nguồn nhân lực chính là đầu tư cho con người thông qua các hoạt động giáo dục, đào tạo, dạy nghề, chăm sóc sức khoẻ, tạo việc làm, an sinh xã hội...nhằm phát triển thể lực, tri thức, khả năng nhận thức và tiếp thu kiến thức, tay nghề; tính năng động và sức sáng tạo của con người; cùng với việc phát huy bản sắc nền văn hoá, truyền thống lịch sử dân tộc để hun đúc thành bản lĩnh, ý chí của con người trong lao động. Đó chính là nguồn nội lực, là yếu tố nội sinh, nếu được phát huy và sử dụng có hiệu quả sẽ là động lực, nguồn sức mạnh để phục vụ cho chính con người và xã hội.
Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, Việt Nam rất coi trọng yếu tố con người, nguồn nhân lực, coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Có thể nói rằng phát huy tiềm năng nguồn nhân lực Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập là khâu đột phá nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế- xã hội đến năm 2010; đảm bảo sớm đưa Việt Nam ra khỏi tình trạng nước kém phát triển, rút ngắn được khoảng cách về sự phát triển so với các nước trong khu vực và trên thế giới trong quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Tổng kết thực tiễn 20 năm đổi mới và nghiên cứu lý luận, Việt Nam đã đi đến kết luận rằng con người và nguồn nhân lực là nhân tố quyết định sự phát triển của đất nước. Cùng với những thành tựu to lớn trong phát triển kinh tế – xã hội, nhất là tốc độ tăng trưởng kinh tế được duy trì liên tục ở mức cao và ổn định (từ 7%-7,5%/năm, năm 2006 đạt 8,2%, năm 2007 dự kiến là 8,5%), Việt Nam luôn quan tâm đến phát triển nguồn nhân lực, đầu tư mạnh vào " vốn con người" và đạt được kết quả quan trọng, tạo cho nguồn nhân lực Việt Nam có những lợi thế rất cơ bản:
- Việt Nam có quy mô dân số lớn và tháp dân số trẻ, được thế giới đánh giá là đang ở thời kỳ có “tháp dân số vàng”. Đến năm 2006, dân số Việt nam có trên 84 triệu người, quy mô lực lượng lao động lớn (45,6 triệu người), lao động tr? chiếm tỷ trọng lớn (45,6%) trong lực lượng lao động.
- Trình độ dân trí của nguồn nhân lực tương đối cao, tỷ lệ dân số biết chữ chiếm khoảng 94%, khoảng 97% lực lượng lao động biết chữ . Bản chất con người Việt Nam cần cù, yêu lao động, khéo tay và sáng tạo
- Tỷ lệ lao động qua đào tạo đang có xu hướng tăng lên, chất lượng lao động ngày một nâng cao, từng bước đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế, của thị trường lao động. Đến năm 2007, lao động qua đào tạo đạt khoảng 28%, trong đó qua đào tạo nghề khoảng 23%. Chỉ số phát triển con người (HDI) được cải thiện đáng kể, từ 0,456 năm 1990 (xếp thứ 121), tăng lên 0,7090 (xếp thứ 109), vượt lên 12 bậc trong bảng xếp hạng HDI.
- Mọi người đều được tự do và có cơ hội trong tạo việc làm và tự tạo việc làm, tự do hành nghề, tự do thuê mướn lao động theo quy d?nh c?a pháp luật; giá nhân công vẫn ở trong thời kỳ rẻ (thấp hơn các nước trong khu vực 30-40%), hấp dẫn các nhà đầu tư trong nước và quốc tế.
Có thể nói, trình độ dân trí, vốn tri thức và tay nghề của nguồn nhân lực Việt Nam ngày một nâng cao và được phát huy là chìa khoá tiến vào khoa học, kỹ thuật và công nghệ, góp phần quan trọng vào tăng trưởng kinh tế trong những năm vừa qua, tạo bước phát triển đầy ấn tượng của đất nước trong thời kỳ đổi mới, là một trong những điều kiện cơ bản để Việt Nam Hội nhập thành công vào nền kinh tế thế giới.
Tuy nhiên, Việt Nam cơ bản vẫn là nước nông nghiệp, với điểm xuất phát kinh tế thấp, khoảng cách về trình độ phát triển giữa Việt Nam với nhiều nước trên thế giới còn rất lớn, trong khi cạnh tranh quốc tế ngày càng quyết liệt; đặc biệt, trước yêu cầu của công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập, phấn đấu đến năm 2010 đưa nước ta ra khỏi tình trạng nước kém phát triển và năm 2020 nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, thì Việt Nam đang phải đối mặt với thách thức lớn về chất lượng nguồn nhân lực, nhất là đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực trình độ cao cho nền kinh tế.
Hiện nay, tỷ lệ lao động qua đào tạo, nhất là qua đào tạo nghề còn thấp, chỉ bằng 1/3 các nước và các nền kinh tế công nghiệp mới (NICs, NIEs); trong số lao động qua đào tạo nghề, chỉ có khoảng 25% là được đào tạo dài hạn, trình độ cao nên kỹ năng, tay nghề còn yếu. Mặt khác, kỷ luật lao động, tác phong làm việc công nghiệp còn thiếu, kỹ năng nghề nghiệp, thể lực chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động, trước hết ở thị trường yêu cầu lao động có trình độ cao và thị trường lao động ngoài nước. Đào tạo, dạy nghề chưa gắn chặt với yêu cầu của sản xuất, của thị trường lao động; ngành, nghề đào tạo vẫn chưa phù hợp với cơ cấu ngành, nghề mà xã hội đang cần, thiếu lao động quản lý, lao động kỹ thuật trình độ cao, lao động dịch vụ cao cấp (tài chính, ngân hàng, du lịch…) cung cấp cho các ngành kinh tế quốc dân mũi nhọn, vùng kinh tế trọng điểm và cho xuất khẩu lao động.
Thách thức lớn nhất hiện nay là vấn đề giải quyết việc làm đầy đủ cho người lao động. Hơn 20 năm đổi mới, nền kinh tế Việt Nam có bước phát triển khá, song chưa vững chắc, hiệu quả và sức cạnh tranh thấp, chưa thể tạo đủ việc làm cho lao động xã hội, chất lượng việc làm chưa cao, tính bền vững, hiệu quả trong việc làm còn thấp, tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị còn cao (5,10 % năm 2006) và tình trạng thiếu việc làm ở nông thôn cũn nhi?u. Theo dự báo, dân số Việt nam đạt khoảng 88-89 triệu người vào năm 2010; với tốc độ tăng nguồn lao động 2,4-2,5%, mỗi năm có hơn 1 triệu thanh niên bước vào tuổi lao động, cộng với số chưa có việc làm của năm trước tồn đọng chuyển sang thì nhu cầu tạo việc làm mới cho khoảng 1,6 triệu người/năm.
Thời gian qua, chuyển dịch cơ cấu lao động diễn ra còn chậm. Lao động làm việc trong nông nghiệp chiếm 54,7%, lao động ở khu vực nông thôn chiếm chủ yếu (75%). Để giảm cơ cấu lao động nông nghiệp xuống dưới 50% vào năm 2010; khoảng 30-35% vào năm 2020 thì cần phải đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, gắn với chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng giảm lao động trong nông nghiệp đồng thời với đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, dạy nghề cho nông dân chuyển sang làm việc ở khu vực công nghiệp, thương mại, dịch vụ.
Nâng cao năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế nói chung, của nguồn nhân lực nói riêng là yêu cầu cấp bách và cũng là thách thức to lớn đối với Việt Nam trong quá trình phát triển và hội nhập. Thực tế hiện nay, ở Việt Nam năng suất lao động thấp, chất lượng sản phẩm chưa tốt, giá thành cao, hàm lượng lao động trí tuệ trong sản phẩm cũn thấp. Tốc độ tăng năng suất lao động bình quân chung của nền kinh tế chưa cao, mức năng suất lao động bình quân mới đạt khoảng 743 USD/lao động/năm, lợi nhuận bình quân trên 1 lao động xu hướng giảm; tiền lương không chiếm tỷ trọng lớn trong thu nhập của người lao động, đời sống người hưởng lương gặp nhiều khó khăn, nên không tạo ra động lực thúc đẩy tăng năng suất lao động xã hội .
Tiềm năng của nguồn nhân lực Việt Nam là rất lớn, song để phát triển, phát huy và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực phải tìm được những khâu và các giải pháp " đột phá", đặc biệt là các giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; tạo mở nhiều việc làm; cải cách căn bản chính sách tiền lương và thu nhập, tạo ra động lực cho người lao động; hoàn thiện chính sách an sinh xã hội cho người lao động phù hợp với kinh tế thị trường...
Trong thời gian tới phải tập trung mọi nỗ lực, tạo ra bước chuyển biến trong một số vấn đề cơ bản sau đây:
Một là, tăng quy mô đào tạo và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đặc biệt là nâng cao chất lượng và thay đổi cơ cấu dạy nghề theo yêu cầu của thị trường lao động.
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế và lao động, con đường duy nhất là phải nâng cao chất lượng nguồn nhân lực về mọi mặt: sức khoẻ, trình độ dân trí, tri thức, tay nghề, tác phong công nghiệp, tính kỷ luật, chấp hành luật pháp. Muốn vậy, phải phát triển, đổi mới giáo dục, đào tạo và dạy nghề, coi đó là khâu đột phá và phải đi trước một bước nhằm phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập.
Chưa khi nào Việt Nam cần nhiều lao động có trí tuệ và tay nghề, cần nhiều nhân tài như hiện nay. Bởi vậy, ngay từ bây giờ cần phải tập trung vào đào tạo, tăng nhanh bộ phận lao động có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao, nhất là những nhà quản lý, các chuyên gia kinh tế, chuyên gia kỹ thuật và đội ngũ lao động trình độ cao, có đủ điều kiện để đáp ứng yêu cầu phát triển nền kinh tế tri thức, đồng thời nhanh chóng phổ cập nghề cho số đông lao động phổ thông, nhất là thanh niên ở nông thôn nhằm chuyển đổi cơ cấu sản xuất, phát triển ngành nghề, tăng cường cơ hội và khả năng lựa chọn việc làm, tự tạo việc làm đảm bảo cuộc sống, thoát nghèo và vươn lên làm giàu.
Mu?n v?y, phải phát triển tăng nhanh quy mô, mở rộng cơ cấu ngành nghề, cơ cấu trình độ, nâng cao chất lượng đào tạo nhằm nâng cao sức cạnh tranh của lao động. Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện để các tổ chức, cá nhân và toàn xã hội tham gia đào tạo, dạy nghề. Chuyển mạnh đào tạo, dạy nghề từ định hướng cung sang định hướng cầu của thị trường lao động, hình thành hệ thống kết nối giữa đào tạo, dạy nghề với doanh nghiệp, người sử dụng lao động d? đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế và yêu cầu việc làm của người lao động.
Hai là, tạo nhiều việc làm, đi đôi với nâng cao chất lượng việc làm, tăng năng suất lao động, tăng thu nhập cho người lao động.
Giải quyết việc làm là một trong những chính sách xã hội cơ bản của quốc gia, là yếu tố quyết định để phát huy tiềm năng của nguồn nhân lực, ổn định và phát triển kinh tế, lành mạnh xã hội, đáp ứng nguyện vọng chính đáng và yêu cầu bức xúc của nhân dân. Khâu có tính đột phá là chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động; đi đôi với tạo việc làm trong nước là chính, cần tập trung tìm kiếm và mở rộng thị trường lao động ngoài nước, đẩy mạnh xuất khẩu lao động và chuyên gia; bổ sung, hoàn thiện hệ thống chính sách, cơ chế luật pháp nhằm tiếp tục tạo môi trường và điều kiện thuận lợi để mọi người đầu tư phát triển việc làm, cụ thể là:
- Tăng đầu tư xã hội cho phát triển; khuyến khích mọi thành phần kinh tế, mọi công dân, mọi nhà đầu tư trong và ngoài nước mở mang ngành nghề, tạo nhiều việc làm cho người lao động, trước hết cho phát triển các vùng kinh tế trọng điểm ở 3 miền, phát triển khu vực dân doanh, phấn đấu đến năm 2010 cả nước có khoảng 500 nghìn doanh nghiệp nhỏ và vừa thu hút khoảng 15 triệu lao động; đặc biệt coi trọng phát triển các ngành dịch vụ, công nghiệp chế biến nông sản, khôi phục và phát triển các làng nghề; khuyến khích mọi người tự tạo việc làm và thu hút thêm lao động xã hội, nhất là trong kinh tế hộ gia đình, kinh tế trang trại, hợp tác xã kiểu mới…
- Phát triển thị trường lao động trên phạm vi cả nước trên cơ sở tăng lao động làm công ăn lương có tay nghề, trình độ chuyên môn kỹ thuật cao làm việc trong các thành phần kinh tế, các ngành kinh tế, nhất là khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, ngành dịch vụ… Nhà nước đầu tư thích đáng vào cơ sở hạ tầng của thị trường lao động trong và ngoài nước (dạy nghề, thông tin thị trường lao động, tư vấn giới thiệu việc làm); đặc biệt hình thành các trung tâm giới thiệu việc làm ở 3 vùng áp dụng công nghệ thông tin hiện đại trong giao dịch việc làm, phát triển rộng rãi các website tìm việc làm trên Internet…
- Xuất khẩu lao động và chuyên gia được coi là mũi nhọn, góp phần làm giàu cho đất nước, cho người lao động, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Phấn đấu hàng năm đưa khoảng 80 ngàn lao động và chuyên gia đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài bằng các giải pháp đổi mới căn bản công tác đào tạo huấn luyện, chuẩn bị tốt nguồn lao động, đáp ứng yêu cầu thị trường ngoài nước cả về sức khỏe, trình độ chuyên môn, tay nghề, ngoại ngữ, tác phong công nghiệp và ý thức chấp hành nghiêm kỷ luật lao động; phát triển thị trường hiện có và mở rộng thị trường mới về xuất khẩu lao động; quy hoạch và phát triển đa dạng hình thức, các thành phần kinh tế tham gia đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài.
- Thực hiện có hiệu quả các hoạt động hỗ trợ trực tiếp để tạo việc làm, nhất là cho vay vốn các dự án nhỏ tạo việc làm từ Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm.
Ba là, sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực, tạo động lực mới thông qua cải cách căn bản chính sách tiền lương
Để phát huy tiềm năng nguồn nhân lực Việt Nam trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, vấn đề quan trọng là phải tạo ra động lực mới thông qua chính sách tiền lương và chế độ đãi ngộ lao động. Chính sách đó phải là một chính sách phân phối theo lao động, theo tài năng; phải thực hiện sự công bằng trong phân phối và khuyến khích, tôn vinh lao động sáng tạo, trọng dụng nhân tài, phát triển nhân lực.
Thực hiện cải cách căn bản chính sách tiền lương, tiền công và thu nhập, từng bước cải thiện chính sách tiền lương theo sự phát triển kinh tế - xã hội và tương ứng với nhịp độ tăng thu nhập trong xã hội; kết hợp với cải cách trợ cấp của người nghỉ hưu, người có công và những người có hoàn cảnh khó khăn.
Thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm và thực hiện chủ trương xã hội hoá đối với khu vực sự nghiệp, nhằm tạo điều kiện đổi mới chế độ tiền lương của khu vực này. Thực hiện cơ chế tiền lương mới trong khu vực sản xuất kinh doanh, bảo đảm tiền lương khu vực này do thị trường quyết định, phụ thuộc vào quan hệ cung – cầu lao động, có sự thỏa thuận của các bên trong quan hệ lao động; các doanh nghiệp được tự chủ trong việc trả lương và tiền thưởng trên cơ sở năng suất lao động và hiệu quả của doanh nghiệp; góp phần xây dựng mối quan hệ hài hòa, đồng thuận giữa người sử dụng lao động và người lao động, giảm tranh chấp lao động và đình công.
Bốn là, tiếp tục phát triển và hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội .
Trong kinh tế thị trường và hội nhập, nguy cơ rủi ro đối với người lao động là rất lớn. Để đảm bảo an toàn việc làm, an toàn thu nhập cho người lao động cần phải tiếp tục phát triển và hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội đối với người lao động theo hướng đa tầng, linh hoạt và hỗ trợ lẫn nhau, bao gồm BHXH bắt buộc, BHXH tự nguyện, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp v những hình thức trợ giúp xã hội khc nhằm tạo quyền bình đẳng trong việc tham gia bảo hiểm xã hội của mọi người lao động cũng như chăm sóc những đối tượng yếu thế trong xã hội./.
Nguyễn Thị Kim Ngân
Bộ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội

Suy nghĩ về phát triển nguồn nhân lực ở nước ta


Suy nghĩ về phát triển nguồn nhân lực ở nước ta
Nguyễn Trung

I. Đặt vấn đề:

Hiện nay cả nước đang quan tâm đến vấn đề giáo dục, với mong muốn nước ta sớm có được một nền giáo dục tiên tiến, đáp ứng yêu cầu phát triển ngày càng cao của đất nước. Hơn nữa, phát triển nguồn nhân lực đang trở thành đòi hỏi bức thiết hàng đầu trên chặng đường công nghiệp hóa hiện đại hóa hiện nay của đất nước, chặng đường nước rút – vì thời gian từ nay đến năm 2020 không phải là dài. Bài viết này cố gắng nêu lên một số suy nghĩ ban đầu với cách nhìn như vậy§.

Sự thật là chưa lúc nào vấn đề phát triển con người và nguồn nhân lực trở thành vấn đề thời sự nóng bỏng ở nước ta như giai đoạn hiện nay, bởi hai lẽ:

1. Đất nước giành được nhiều thành tựu to lớn sau 20 năm đổi mới, nay bước vào một thời kỳ phát triển mới sau khi đã hội nhập toàn diện vào nền kinh tế toàn cầu hóa, cơ hội và thách thức chưa từng có, đòi hỏi phải có nguồn nhân lực thích ứng.

2. Thực trạng nguồn nhân lực hiện nay khó cho phép tận dụng tốt nhất cơ hội đang đến với đất nước. Không mau chóng khắc phục được yếu kém này, có nguy cơ khó vượt qua những thách thức mới, sẽ kéo dài sự tụt hậu của đất nước với nhiều hệ lụy nan giải.

II. Điểm lại nhận thức và việc làm thực tế

Trong hầu hết các Đại hội Đảng và trong nhiều văn kiện quan trọng khác nhau của Đảng đã khẳng định:

Con người là vốn quý nhất, chăm lo hạnh phúc con người là mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ ta, coi việc nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi công cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa; khẳng định con người Việt Nam phát triển toàn diện cả về thể lực, trí lực, cả về khả năng lao động, năng lực sáng tạo và tính tích cực chính trị - xã hội, cả về đạo đức, tâm hồn và tình cảm chính là mục tiêu, là động lực của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa…Mọi chủ trương đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước đều nhằm quán triệt tư tưởng chăm lo bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người, hướng tới mục tiêu phát triển toàn diện con người Việt Nam…*

Tuy nhiên, từ ý tưởng trên đi tới đường lối, chính sách và tổ chức thực hiện là cả một cuộc trường chinh gian khổ.

Sau 22 năm đổi mới, nước ta đứng trước thực tế:

Kinh tế tăng trưởng và phát triển liên tục, 10 năm qua tăng trưởng trung bình 7%; 5 năm qua tăng trưởng trung bình 7,5%. Năm 2007 – năm đầu tiên là thành viên của WTO, chỉ số tăng trưởng GDP là 8,5%, của xuất khẩu 20,5%, thu hút FDI tăng 17% (TBKTVN ngày 15-10-2007). Năm 2007, Việt Nam được UNDP đánh giá là nước thứ 6 trong “top ten” của thế giới về thu hút FDI cho các năm 2008-2009 (sau Trung Quốc, Mỹ, Ấn độ, Nga, Brazil), xếp hạng môi trường kinh doanh được nâng cấp lên 13 bậc¨…. Nhờ GDP tính theo đầu người tăng gấp 4 lần so với trước đổi mới, nên đời sống của nhân dân nhìn chung được nâng cao rõ rệt. Việc Việt Nam ngày 16-10-2007 được bầu làm thành viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hiệp Quốc khóa 2008-2009 cho thấy vị thế Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao. Song chính những thành tựu đạt được này đối chiếu với công sức bỏ ra, với những điều kiện và cơ hội cho phép, phải chăng Việt Nam đang phát triển dưới mức tiềm năng của mình?

Trong phát biểu của mình tại những cuộc hội đàm chính thức hai năm qua với người đứng đầu chính phủ các nước phát triển, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đánh giá quan hệ song phương phát triển chưa đúng tầm; điều này cũng hàm ý tự khẳng định sự phát triển chưa đúng tầm về phía nước ta. Nếu so sánh với các NICs ở châu Á sau 30 năm phát triển đầu tiên, nước ta phát triển như hiện nay là chậm, mặc dù điều kiện ngày nay của nước ta thuận lợi hơn nhiều về mọi mặt so với họ thời đó. Có không ít ý kiến các học giả trong và ngoài nước cho rằng chưa bao giờ Việt Nam hội đủ được thiên thời, địa lợi, nhân hòa như ngày nay, mức độ đạt được sau 32 năm phát triển – trong đó có 22 năm đổi mới – như thế là thấp. Theo số liệu của Tổng cục thống kê, từ năm 2000 đến nay, đầu tư toàn xã hội ước chừng chiếm khoảng 30 – 40% GDP/năm, so với chỉ số tăng trưởng của những năm này ta có chỉ số ICOR hàng năm là xấp xỉ 5 hoặc <5, nghĩa là quá cao; lẽ ra chỉ số này chỉ nên là 3 – 3,5 so với mức tăng trưởng. Nói cách khác, với tổng đầu tư hàng năm như thế cho thấy tốc độ tăng trưởng và hiệu quả chung của nền kinh tế như thế là dưới khả năng cho phép, kết cấu hạ tầng vẫn phát triển rất chậm; thực trạng này có nguyên nhân quan trọng liên quan đến chất lượng nguồn nhân lực nước ta…

Giáo dục, đào tạo, và khoa học 22 năm qua phát triển mạnh, góp phần quan trọng vào những thành tựu của đất nước đã nêu trên. Nhìn chung chất lượng nguồn nhân lực được nâng cao hơn trước, thể hiện rõ nét nhất ở năng xuất lao động của toàn xã hội đã thay đổi hẳn cục diện phát triển kinh tế nước ta kể từ khi tiến hành đổi mới, tạo ra tốc độ tăng trưởng kinh tế đứng thứ nhì thế giới trong những năm gần đây, trình độ giáo dục phổ cập và số lượng học sinh, lực lượng lao động có đào tạo, số người tốt nghiệp các bậc học tăng nhanh so với nhiều nước, đặc biệt trong vòng 10 năm 1993 -2002 tỷ lệ đói nghèo giảm còn một nửa (từ 57% xuống còn 28%).

Những thành thành tựu nêu trên được thế giới đánh giá là “star performer”© trong đổi mới, trong gắn phát triển kinh tế với phát triển xã hội của nền kinh tế đang chuyển đổi (WB).

Trên đây là so sánh ta hôm nay với ta cách đây 22 năm. Tuy nhiên mặt trái của tấm huy chương: Trung tuần tháng 10-2007 cuộc họp đoàn đại biểu quốc hội Hà Nội và cuộc họp của đoàn đại biểu quốc hội TPHCM đều nêu ý kiến: Đã đến lúc cần phải xem xét chất lượng cuộc sống so với tăng trưởng kinh tế đạt được. Tại kỳ họp thứ 2 hiện nay của Quốc hội khóa XII nhiều đại biểu quốc hội các tỉnh khác cũng nêu ý kiến này.

Đấy là chuyện ta so với ta.

Nếu so kết quả đạt được với công sức bỏ ra, có lẽ phải nói lãng phí phạm phải trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo và phát triển con người là tổn thất lớn nhất so với bất kỳ lãng phí nào khác đã phạm phải trong 22 năm đổi mới, với nhiều hệ quả lâu dài nhất.

Đứng chân trong thế giới này, nước ta còn phải làm hai so sánh nữa:
Một là, chất lượng nguồn nhân lực và năng suất lao động so với các nước chung quanh, khoảng cách phát triển không thu hẹp được bao nhiêu; nếu lấy chỉ số thu nhập tính theo đầu người làm thước đo chung nhất, khoảng cách này có xu hướng đang rộng thêm.

Sau 20 năm đổi mới GDP danh nghĩa tính theo đầu người năm 2006 tăng gấp 4 lần năm 1986. Số liệu này khẳng định tất cả những gì đã làm được.

Tuy nhiên, theo số liệu thống kê của IMF năm 2006:

GDP danh nghĩa toàn thế giới tính theo đầu người năm 2005 là 7263 USD, của Việt Nam là 650 USD*, nghĩa là gần bằng 9% mức của thế giới – nghĩa là khoảng cách của nước ta so với thế giới bên ngoài là rất lớn.

So sánh với các nước láng giềng chung quanh, cùng nguồn thống kê nêu trên cho thấy: Mặc dù gần một thập kỷ liên tiếp Việt Nam có tốc độ tăng trưởng đứng thứ hai thế giới sau Trung Quốc, nhưng GDP danh nghĩa tính theo đầu người của Việt Nam năm 2005 bằng 33% của Trung Quốc (1940 USD); 2,1% Singapore (29765 USD), 3,6% Hàn Quốc (17865 USD); 4,2% Đài Loan (15387 USD); 12% Malaysia (5376 USD); 21% Thái Lan (2993 USD); 43% Indonesia (1500 USD); và 50% Philippines (1278 USD).

Năm 1986 – năm bắt đầu công cuộc đổi mới – thu nhập theo đầu người của ta kém Trung Quốc 200USD, kém Thái Lan 997 USD, kém Malaysia 1950 USD, kém Indonesia 550 USD, kém Philippines 440 USD, kém Hàn Quốc 6940 USD… Cũng so sánh như vậy, năm 2006 thu nhập của ta kém Trung Quốc 1100 USD, Thái lan 2140 USD, Malaysia 4520 USD, Indonesia 750 USD, Philippines 420 USD, Hàn Quốc 17.000 USD… Nghĩa là khoảng cách thu nhập của ta so với những nước này đang ngày càng rộng ra!

(Tham khảo thêm thống kê của IMF 2007).

Hai là, khả năng phát triển kinh tế theo chiều rộng đã tới mức trần, nước ta đứng trước đòi hỏi phải bằng mọi cách chuyển từ lợi thế so sánh dựa trên lao động giá rẻ, nhờ cậy vào tài nguyên và môi trường sang tạo ra lợi thế cạnh tranh chủ yếu dựa trên phát huy nguồn lực con người. Ngay trước mắt, thời cơ đang đem lại cho đất nước khả năng đột phá sang một giai đoạn phát triển mới, có thể khắc phục tình trạng tụt hậu. Song nước ta đang vấp phải 3 trở lực lớn: chất lượng còn thấp về nguồn nhân lực, sự bất cập lớn của kết cấu hạ tầng vật chất kỹ thuât, thể chế và năng lực quản lý hẫng hụt nhiều mặt.

Trong các chuyến đi thăm chính thức các nước phát triển của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trong năm 2007, Việt Nam được các nước chủ nhà coi là đối tác đầy triển vọng, những công trình hợp tác kinh tế được ghi nhớ lên tới nhiều chục tỷ USD, nhiều công trình đầu tư lớn, dự án lớn được được cam kết ở mức sâu hơn trên những lĩnh vực quan trọng – nghĩa là chỉ còn chờ phía ta bật đèn xanh để đi vào đàm phán cụ thể: phát triển hệ thống đường xá toàn quốc, phát triển ngành hàng không, mở rộng khả năng sản xuất nhiệt điện, (vấn đề điện năng lượng hạt nhân đang được đề cập), phát triển toàn diện ngành dầu khí, phát triển những khu công nghệ cao, phát triển thị trường tài chính, phát triển thị trường địa ốc, mở rộng ngành công nghiệp du lịch..; ngay trong nước thị trường tài chính có triển vọng thu hút những nguồn vốn lớn… Lần đầu tiên nước ta đứng trước tình hình không thiếu vốn và cơ hội, có nhiều dự án lớn, nhưng lại thiếu trầm trọng năng lực quy hoạch và quản lý, thiếu trầm trọng nguồn nhân lực có chất lượng cao đáp ứng những dự án lớn này. Tiến độ nhiều dự án lớn đã triển khai thường chậm một, hai năm so với kế hoạch hoặc hơn nữa. Trên hết cả, khoảng 2/3 GDP của nước ta dành cho xuất khẩu, cạnh tranh hàng giá rẻ với chất lượng thấp và dịch vụ thấp ngày càng không còn đất sống trước những làn sóng hàng hóa rẻ Trung Quốc khắp thế giới, chỉ còn một con đường cạnh tranh bằng hàng hóa chất lượng cao và dịch vụ cao. Trong khi đó cơ hội không biết chờ đợi. Nói riêng về điện: năm 2006 ta thiếu 1,1tỷ kwh; năm 2007 thiếu 6,6 tỷ kwh, năm 2008 Tập đoàn Điện (EVN) dự báo thiếu 8,6 tỷ kwh, mọi kế hoach sản xuất điện EVN đã cam kết với Chính phủ đều chậm vài năm, thế nhưng từ nhiều năm nay không một dự án đầu tư nhiệt điện nào của nước ngoài dù khả thi về mọi mặt, kể cả dự án BOT, có thể vào VN; một ví dụ này nói lên nhiều điều.

Phải chăng đất nước đứng trước một nghịch cảnh: Kinh tế phát triển mạnh và cơ hội đang đến với đất nước rất lớn, nhưng trong khi đó giáo dục – đào tạo – khoa học và vấn đề phát triển nguồn nhân lực nói chung sau thời kỳ giành được những một số thành tựu ban đầu theo xu hướng phát triển đại trà, ngày nay đang đi tới một điểm nóng, với nhiều hệ quả trầm trọng. Trong phát triển con người và nguồn nhân lực, nhiều yếu kém và tiêu cực tích tụ lâu năm đang dồn nén lại thành nguy cơ có thể làm cho đất nước bó tay trước cơ hội lớn. Bản thân ngành giáo dục - đào tạo – khoa học, và nhìn chung là toàn hệ thống phát triển nguồn nhân lực đang có nguy cơ rơi vào khủng hoảng: đào tạo nhiều mà dùng được ít, số người được đào tạo thất nghiệp cao, chi phí của toàn xã hội quá lớn so với những gì gặt hái được, có nhiều hậu quả lớn phải xử lý tiếp (ví dụ vấn đề đào tạo lại, việc bố trí người không đúng việc, không chuẩn bị kịp cho các bước phát triển tiếp theo của đất nước, phát sinh bộ máy cồng kềnh khiến cho quan liêu tham nhũng không thể tránh được…). Đất nước đứng trước tình hình: không đẩy nhanh phát triển giáo dục, đào tạo và khoa học thì bất cập, đảy nhanh thì thiếu nhiều nguồn lực, đảy nhanh theo hướng đang làm sẽ có thể đi tới đổ vỡ lớn hơn, hướng đúng là gì chưa rõ, ý kiến đang rất khác nhau.

Có đúng như vậy không?

Đây là vấn đề cần tìm hiểu và kết luận dứt khoát. Chưa lúc nào trong xã hội tỏ ra lo lắng bức xúc về tình hình giáo dục – đào tạo – khoa học với nhiều lý lẽ rất xác đáng như ngày nay*.

Trước hết nói về công sức bỏ ra rất lớn.

Trên thực tế, tính theo thu nhập trên đầu người, Việt Nam có lẽ là nước có tỷ lệ chi cho giáo dục cao nhất thế giới: trung bình khoảng 8% GDP/năm, ở Mỹ mới chỉ là 6%, Trung Quốc là 2,7%..; nếu tính theo thu nhập của hộ gia đình tỷ lệ chi cho giáo dục ở nước ta còn cao hơn nữa©. Chi ngân sách nhà nước cho giáo dục và đào tạo năm 2000 là 11,5%, năm 2005 là 13%, năm 2007 là 20% (nguồn TCTK và BKHĐT), nhiều quốc gia mơ tưởng chỉ số này dành cho giáo dục của họ. Gần đây còn có nhiều quyết sách khác về tài chính – kể cả việc cho sinh viên vay tiền ngân hàng để chi cho học tập – hỗ trợ việc phát triển giáo dục. Nghĩa là cả nước nỗ lực rất lớn cho phát triển giáo dục nói riêng và phát triển nguồn nhân lực nói chung.

Thực trạng hiện nay:

Báo cáo khảo sát “200 doanh nghiệp top của Việt Nam” của UNDP – Hà Nội xuất bản tháng 9-2007 cho biết: Qua phỏng vấn, các chủ doanh nghiệp Việt Nam đều cho rằng (a)họ phải đào tạo lại hầu hết mọi người ở mọi cấp bậc – học nghề, đại học, sau đại học - mà họ nhận vào doanh nghiệp của mình, (b)họ không tin tưởng vào hệ thống đại học và các viện nghiên cứu của trong nước, vì chất lượng giảng dạy thấp; nội dung thấp và lạc hậu; khả năng nghiên cứu nghèo nàn; sách vở và thiết bị đều thiếu, không đồng bộ, cũ kỹ, rất yếu về ngoại ngữ, năng lực tổ chức và quản lý thấp…

Tình hình chung nguồn nhân lực của nước ta hiện nay là: Sau 30 năm công nghiệp hóa, vẫn còn khoảng 70% lao động cả nước trong lĩnh vực nông nghiệp; tỷ lệ học sinh trên triệu dân, tỷ lệ số trường các loại trên triệu dân, tỷ lệ số trường đại học trên triệu dân; tỷ lệ tốt nghiệp đại học trên triệu dân, tỷ lệ có học vị tiến sỹ trên triệu dân của nước ta đều cao hơn tất cả các nước có mức thu nhập bình quân theo đầu người tương đương như Thái Lan, nhưng chất lượng đang có nhiều vấn đề. Điều tra của Bộ giáo dục và đào tạo năm 2006 cho thấy cả nước có tới 63% số sinh viên ra trường không có việc làm, 37% số còn lại có việc làm thì hầu hết phải đào tạo lại và có nhiều người không làm đúng nghề mình đã học, trong khi đó nhiều doanh nghiệp, kể cả những doanh nghiệp có FDI và nhiều dự án kinh tế quan trọng khác rất thiếu lực nguồn lực chuyên nghiệp. Khoảng 2/3 số người có học vị tiến sỹ trong cả nước không làm khoa học mà đang làm công tác quản lý; số bài báo khoa học được công bố hàng năm chỉ bằng khoảng ¼ của Thái Lan và bằng 0,00043% của thế giới, mặc dù số tiến sỹ của ta hàng năm nhận bằng thường nhiều hơn của Thái Lan, có năm cao gần gấp đôi, vân vân…

Nguồn nhân lực nước ta đứng trước tình hình: trẻ (tính theo tuổi đời trung bình – một ưu thế lớn), đông (một ưu thế lớn khác, nước có dân số đứng thứ 13 trên thế giới), nhưng tỷ lệ tính trên triệu dân của số người có nghề và có trình độ chuyên môn rất thấp so với tất các nước trong nhóm ASEAN 6 và Trung Quốc; số cán bộ kỹ trị và có trình độ quản lý cao rất ít so với dân số cũng như so với quy mô nền kinh tế.

Nền tảng khoa học để phát triển các đội ngũ nguồn nhân lực nước nhà được giáo sư Phạm Duy Hiển đánh giá khái quát: “Với năng lực KHCN như hiện nay, làm sao Việt Nam có thể trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020?”*

Theo điều tra của Diễn đàn kinh tế thế giới năm 2005: Nguồn nhân lực Việt Nam về chất lượng được xếp hạng 53 trên 59 quốc gia được khảo sát, song mất cân đối nghiêm trọng:

- Ở Việt Nam cứ 1 cán bộ tốt nghiệp đại học có 1,16 cán bộ tốt nghiệp trung cấp và 0,92 công nhân kỹ thuật, trong khi đó tỷ lệ này của thế giới là 4 và 10;

- Ở Việt Nam cứ 1 vạn dân có 181 sinh viên đại học, trong khi đó của thế giới là 100, của Trung Quốc là 140 mặc dù mức thu nhập quốc dân tính theo đầu người của Trung Quốc khoảng gấp đôi của nước ta, vân vân§… Vân… vân…

Tác động sâu xa và lâu dài về mặt văn hóa của những tiêu cực trong lĩnh vực giáo dục là nhiều giá trị cao quý bị mai một, với nhiều di chứng khó sửa: suy nghĩ lệch lạc về cái học trở thành hiện tượng xã hội phổ biến; tư tưởng bằng cấp, tình trạng chạy trường chạy điểm, bằng thật học giả, gian lận, nói dối... tràn lan; bệnh hình thức và thành tích chủ nghĩa để lại nhiều hậu quả trầm trọng; giác ngộ ý thức làm chủ bản thân và vai trò chủ nhân ông của đất nước bị hạn chế; tình trạng dạy và học nhồi sọ cản trở đáng kể sự phát triển của mỗi cá nhân cũng như của của đất nước, chẳng những không khuyến khích tự do tư duy sáng tạo mà còn ảnh hưởng đến khả năng đề kháng sự nô dịch sùng ngoại; trong xã hội không hiếm tư tưởng “ăn đong” và tư tưởng làm thuê, không hiếm hiện tượng vùi dập và bỏ phí người tài... Tất cả những yếu kém này vừa đang cản trở khả năng phấn đấu của từng cá nhân, vừa tiếp tục khoét sâu các mặt suy yếu của xã hội, của đất nước. Đã thế, lại có khuynh hướng đổ hết mọi tội lỗi lên cơ chế thị trường! Trong dân gian đã thốt lên sự than vãn: “Bao giờ cho đến ngày xưa!..” Tiến sâu vào thời kỳ phát triển hiện đại và hội nhập, nhưng nhìn chung trong cả nước ý thức luật pháp đối với nhà nước pháp quyền, cũng như ý thức tự chủ đối với xã hội dân sự của những người trong hệ thống bộ máy nhà nước cũng như của người dân còn nhiều mặt hạn chế.

Kết quả chung là: Con người Việt Nam có nhiều tố chất và ưu thế không được nuôi dưỡng và phát huy đúng hướng, chất lượng nguồn nhân lực nhìn chung thấp về nhiều mặt so với các nước ASEAN6 và Trung Quốc, năng suất lao động cũng thấp hơn. Có phải như thế không? – mong được đánh giá khách quan.

Những nguyên nhân chính của tình trạng nêu trên có thể như sau:

1. Không quan tâm và không kế thừa, phát huy những thành tựu giáo dục của nước ta đã tích lũy được trước đổi mới cũng như những thành tựu của thế giới, không khai thác lợi thế nước đi sau, thậm chí ít nhiều hoang tưởng, duy ý chí hoặc nhân danh phát huy sáng tạo đi tìm một con đường riêng, nhưng thực tế là lạc lõng*.

2. Tiêu cực và chủ nghĩa cơ hội đã làm sai lệch những ý tưởng, những mong muốn tốt đẹp dành cho phát triển con người và nguồn nhân lực – điển hình là sự ra đời của khái niệm “xã hội hóa” với nội dung bị bóp méo theo khuynh hướng đẩy việc phát triển con người và nguồn nhân lực ngày càng đi vào con đường thương mại hóa, nhiều công việc thuộc giáo dục và đào tạo trở thành hàng hóa và dịch vụ kiếm lợi nhuận, đã xẩy ra siêu lợi nhuận.

3. Không lường đúng những khó khăn, mâu thuẫn gay gắt giữa một bên là khả năng rất giới hạn của nguồn lực và một bên là đòi hỏi lớn của phát triển – (cụ thể ở đây là phát triển con người và phát triển nguồn nhân lực – của một nước nghèo, đông dân, đang đứng trước yêu cầu chuyển đổi nhanh như nước ta); không lường đúng những mặt phức tạp và những khó khăn rất đa dạng, sâu xa của lĩnh vực thiết yếu bậc nhất và rất nhạy cảm nhất này trong đời sống quốc gia, không nhận thức đúng những yếu kém lớn về năng lực tổ chức và quản lý của bộ máy nhà nước. Duy ý chí và bệnh thành tích đầu độc trầm trọng thêm tình trạng này.

4. Tri thức, tầm nhìn và đạo đức nghề nghiệp của nhiều chuyên gia, nhà khoa học được giao nhiệm vụ trực tiếp làm chính sách quốc gia về giáo dục – đào tạo – khoa học, của những người được trực tiếp giao nhiệm vụ lãnh đạo và quản lý lĩnh vực phát triển giáo dục và nguồn lực con người, và nhìn chung là trình độ của đội ngũ này dưới tầm so với đòi hỏi của nhiệm vụ. Xét theo lương tâm nhà giáo, theo bản lĩnh người trí thức thì còn phải nêu ra nhiều yếu kém nghiêm trọng khác nữa của đội ngũ này.

5. Bao chùm lên tất cả là tác động của những yếu kém nằm trong những nguyên nhân tổng hợp của thực trạng kinh tế, xã hội, chính trị, văn hóa của đất nước.

III Nhìn nhận lại vấn đề phát triển nguồn nhân lực

Xây dựng được con người như thế nào thì sẽ hình thành một quốc gia và xã tắc như thế. Mặt khác, con người tự giác thường là yếu tố quyết định nhất thay đổi xã hội và quốc gia nó đang sống. Sự hưng vong, thịnh suy của một quốc gia gắn liền với những điều mang tính nguyên lý này. Văn minh nhân loại ở nấc thang toàn cầu hóa ngày nay khiến cho việc làm chủ những điều mang tính nguyên lý này càng trở thành đòi hỏi sống còn của mỗi quốc gia và mỗi công dân của nó.

Vì lẽ vừa trình bày, phát triển nguồn nhân lực về thực chất là ngày càng phải làm tốt hơn việc giải phóng con người. Đòi hỏi này cùng một lúc đặt ra hai yêu cầu: Phải tập trung trí tuệ và nguồn lực cho phát triển nguồn nhân lực, mặt khác phải đồng thời thường xuyên cải thiện và đổi mới môi trường kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, gìn giữ môi trường tự nhiên của quốc gia.

Vấn đề lớn nhất đặt ra cho nước ta không phải là cái nghèo, suy nghĩ như vậy sẽ không tìm được lối ra. Vấn đề lớn nhất là những thiếu sót trong cách nhìn về giáo dục và đào tạo, là sự phấn đầu chưa đúng tầm của các cơ quan và cá nhân có trách nhiệm; do đó chưa phát huy được tất cả trí tuệ và nguồn lực đất nước có trong tay cho phát triển nguồn nhân lực như một ưu tiên quốc gia hàng đầu – điều này bao gồm cả ý chí xây dựng một thế chế chính trị và đời sống kinh tế - xã hội – văn hóa hướng vào phát huy những giá trị chân chính của con người, trước hết là phát huy tự do và nghị lực sáng tạo của nó. Vấn đề còn là thiếu ý thức kế thừa, phát huy những thành tựu đất nước đã giành được, là chưa khai thác được một cách sáng tạo những thành tựu của văn minh nhân loại (vấn đề tận dụng lợi thế nước đi sau).

Vì thế phải đặt vấn đề phát triển con người và nguồn nhân lực trong một cách nhìn toàn diện.

Ngày nay không thể quan niệm đơn thuần nguồn nhân lực là lực lượng lao động với nghĩa đơn giản là những người làm công ăn lương, những người nông dân ít có điều kiện học hành...

Cuộc sống ngày nay đòi hỏi phải nhìn nhận nguồn nhân lực bao gồm tất cả mọi người thuộc mọi tầng lớp xã hội và nghề nghiệp khác nhau, mọi địa vị xã hội từ thấp nhất đến cao nhất - kể từ người làm nghề lao động đơn giản nhất, nông dân, công nhân, người làm công việc chuyên môn, người làm khoa học, người làm nhiệm vụ quản lý, nhà kinh doanh, người chủ doanh nghiệp, giới nghệ sỹ, người hoạch định chính sách, quản lý đất nước... Tất cả đều nằm trong tổng thể của cộng đồng xã hội, từng người đều phải được đào tạo, phát triển và có điều kiện để tự phát triển. Phải làm tất cả mọi việc để từng người tìm được chỗ đứng và đứng đúng chỗ của mình, chịu sự sàng lọc tất yếu của cuộc sống.

Thử hình dung, bất kể một bộ phận, một tầng lớp hay một giới nào đó, thậm chí một cá nhân riêng lẻ nào đó có ảnh hưởng trong nguồn nhân lực này yếu kém hay bệnh hoạn, sẽ có hệ quả gì? Ví dụ: Nguồn nhân lực cả nước ta làm sao phát huy hết mức trong tình hình một bộ phận của nó, cụ thể ở đây là đội ngũ trong bộ máy quản lý đất nước – một bộ phận quan trọng của nguồn nhân lực - để cho năm 2005 nước ta xếp hạng thứ 107 về nạn tham nhũng, năm 2006 thứ 111 và năm 2007 thứ 123 (tham khảo báo cáo hàng năm của Transparency International), nhiều doanh nghiệp hàng năm phải dùng tới khoảng 900 giờ làm việc năm riêng cho một việc nộp thuế cho nhà nước, vv... Trình độ kỹ trị của đội ngũ cán bộ trong bộ máy công quyền còn thấp, nên công việc ùn tắc nhiều và gây nhiều lãng phí; chỗ này chỗ kia còn những Bùi Tiến Dũng đủ các loại... Trong tình hình như thế, giả thử có được một đề án 112 tối tân hiện đại nhất thế giới cũng không thay đổi được bao nhiêu. Vân… vân…

Thực ra phải nói: Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trong bộ máy công quyền hiện nay phải đặt thành một ưu tiên nếu không cao hơn thì ít nhất cũng không kém gì những ưu tiên khác dành cho những bộ phận khác trong lực lượng lao động của cả nước. Đã có không ít tiếng nói trên báo chí và trong dư luận xã hội đòi hỏi phải nâng cao “quan trí”, nâng cao năng lực kỹ trị, nâng cao ý thức công bộc của đội ngũ cán bộ viên chức ăn lương nhà nước. Người ta hay nói nhiều đến ý thức thấp kém của người nông dân, người công nhân – ví dụ tình trạng ăn cắp vật liệu ở công trình nhà máy lọc dầu Dung Quất… Song hiện tượng đáng lo lắng hơn lại là cuộc sống có không biết bao nhiêu ví dụ về tác trách, về vận dụng hay thi hành sai luật pháp và những chính sách đúng đắn·. Rõ ràng có làm tốt được việc đổi mới đội ngũ cán bộ trong bộ máy công quyền, nhiều việc khác mới hy vọng làm tốt được, mọi người khác mới có điều kiện phát huy được mình. Đấy là chưa nói đến những chủ trương, những chính sách không đúng hoặc bất cập – do con người và cơ chế bất cập làm ra.

Có thể nói thế này: Cầu Văn Thánh ở Thành phố Hồ Chí Minh là một sản phẩm tiêu biểu, (a)phản ánh tổng hợp được thực chất trình độ của nguồn nhân lực nước ta – từ người công nhân bình thường đến người thiết kế, người làm kỹ thuật, nhà thầu, người quản lý, người quyết định chính sách – nghĩa là trình độ nguồn nhân lực nào sản phẩm nấy; (b)đồng thời cũng phản ánh sinh động môi trường pháp lý và đời sống kinh tế - chính trị - văn hóa xã hội của nguồn nhân lực đã làm nên cây cầu này, nghĩa là môi trường nào thì tạo ra nguồn nhân lực nấy!

Nhìn nhận như vậy, quốc sách về phát triển nguồn nhân lực, về phát huy và sử dụng con người và người tài đòi hỏi phải gắn liền với việc đảy mạnh đổi mới trên nhiều phương diện – về lâu dài là đổi mới toàn diện cả thể chế và xã hội trên cái nền tảng dân tộc vững chắc đã tạo dựng nên tổ quốc Việt Nam của chúng ta.

Với những điều trình bày trên, phát triển nguồn nhân lực ngày nay không thể chỉ đơn thuần một chiều hiểu theo nghĩa phát triển lực lượng lao động như lâu nay thường làm: mở thêm các trường, các cơ sở đào tạo nghề, cải tiến nội dung dạy, đổi mới chính sách lao động tiền lương, cải tiến công tác công đoàn, phổ biến kỹ thuật nông nghiệp cho nông dân, vân vân… Đây chỉ là một khía cạnh nhất định của nhiệm vụ phát triển nguồn nhân lực đối với những bộ phận nhất định người lao động trong cộng đồng dân cư của đất nước.

Đặt vấn đề với cách nhìn toàn diện, có nghĩa phải đồng thời và từng bước làm rất nhiều việc khác – ví dụ những việc đã liệt kê ra được như cải cách hành chính, xóa bỏ chủ quản, xóa bỏ bao cấp.., giảm biên chế, bổ túc và đào tạo lại đội ngũ cán bộ viên chức các cấp, mở rộng và nâng cao đội ngũ cán bộ kỹ trị, cán bộ quản lý, người làm chính sách, đổi mới chính sách để phát huy con người và dùng người…; còn biết bao nhiêu việc chưa liệt kê ra được như trong phát huy dân chủ, vận dụng tri thức tiên tiến trong đổi mới thể chế quốc gia, trong hội nhập sân chơi toàn cầu...

Phát triển nguồn nhân lực hiển nhiên đòi hỏi phải đồng thời đổi mới triệt để toàn xã hội hướng thiện - theo những giá trị chân chính – ví dụ, để có một môi trường xã hội trọng công bằng, kỷ cương, đạo đức; pháp luật được coi làm chuẩn mực; xã hội trở thành xã hội học tập..; tất cả theo nghĩa muốn có nguồn nhân lực nào thì cũng phải đồng thời tạo ra môi trường nấy, văn hóa phải trở thành linh hồn dẫn dắt sự phát triển.

Lẽ đương nhiên không thể tạo ra mọi thứ như thế trong một đêm, nhưng cần có cái nhìn toàn diện để xác định cho đúng cái đích cần lựa chọn rồi mới hoạch định những bước đi, những việc làm.

Như vậy không thể có vấn đề phát triển nguồn nhân lực riêng lẻ tách rời khỏi đời sống chung quanh - như trong một xã hội chân không, mà phải nhìn thẳng vào thực tế: Xã hội nào thì nguồn nhân lực nấy, muốn có cái này tốt, cái kia cũng phải làm cùng tốt theo, tất cả phải trên cái nền văn hóa – dân tộc – dân chủ, tất cả phải hội nhập vào bước đi chung của toàn cầu.

Nói ngắn gọn: Tất cả hướng vào cái đích là có được một nguồn nhân lực phát triển trong một môi trường thân thiện với phát triển. Đại tướng Võ Nguyên Giáp đúng khi đã nói tới ý nghĩa đổi mới giáo dục thực chất là một cuộc cách mạng chấn hưng đất nước.

IV. Bình tĩnh, tranh thủ thời gian tìm ra giải pháp thuyết phục

Trước khi bàn tiếp, xin kiến nghị:

(1) Bất luận lựa chọn và quyết định giải pháp gì và trong bất cứ hoàn cảnh nào, ý chí muốn học, tinh thần ham học, quyết tâm chịu đựng mọi hy sinh khốn khó để học và học cho đến cùng của người dân nước ta, trước hết là của lớp trẻ, là cái vốn vô giá của quốc gia. Tinh thần này, ý chí này cần được gìn giữ, nâng niu, cổ vũ.

(2) Sự phát triển ồ ạt theo số lượng về giáo dục ở nước ta đặt ra vấn đề: Đã chót đẻ ra thì phải nuôi. Đất nước đứng trước tình thế có quá nhiều trường đại học, học viện, các loại trường khác.., trong khi đó chất lượng của những loại trường này nhìn chung thấp, nguồn lực có thể huy động được lại cực kỳ eo hẹp. Giải pháp nào cũng phải hạn chế xuống mức thấp nhất gánh nặng dồn lên vai học sinh.

(3) Bình đẳng về cơ hội cho mọi người là một trong những tiêu chí quan trọng nhất của xã hội văn minh, trong đó bình đẳng về cơ hội trong giáo dục là quan trọng bực nhất. Song lực và trí nước ta có hạn, nên tôi nghĩ nước ta cũng phải đi từng bước, điều kiện cho phép đến đâu thì làm đến đấy, nỗ lực hết mức làm đến đấy.*!

Chỉ ba điều nêu trên đủ cho thấy phải bình tâm suy nghĩ, xem xét lại tất cả, phải mất công động não cân nhắc mọi điều trước sau mới hy vọng tìm ra giải pháp đúng.

Trong 22 năm đổi mới vừa qua, xin hãy kiểm kê lại xem Nhà nước ta đã bao nhiêu lần cải cách, cải tiến giáo dục – từng phần hoặc toàn phần, thế nhưng kết cục là có tình hình giáo dục – đào tạo – khoa học như hôm nay. Chẳng lẽ cứ tiếp tục cải cách thêm kiểu như thế này để kéo dài, để mở rộng mãi tình trạng hôm nay? Đã đến lúc nên tổng kết một cách triệt để.

Cả nước đều biết, ngay từ khi nhận trọng trách mới, Bộ trưởng Nguyễn Thiện Nhân đã dành nhiều công sức trực tiếp lao vào giải quyết những vấn đề nóng bỏng trong ngành giáo dục. Đích thân Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng quan tâm chỉ đạo Bộ này và các ngành có liên quan làm tất cả những gì có thể để cải thiện tình hình và đẩy mạnh phát triển giáo dục, coi đấy là một trong những ưu tiên lớn của quốc gia. Việc làm gần đây nhất là Thủ tướng chỉ thị đẩy mạnh vấn đề cho các sinh viên nghèo vay tiền ngân hàng để đi học…

Song như đã trình bày, những khó khăn yếu kém trong lĩnh vực giáo dục nói riêng và trong phát triển nguôn nhân lực nói chung tích tụ từ hai mươi năm nay thành nhiều vấn đề lớn, nan giải, có nhiều vấn đề đã trở thành những nếp khó sửa, không thể một sớm một chiều nhìn được hết, càng không thể tìm ngay được lối ra. Đấy là chưa nói đên đòi hỏi của cạnh tranh kinh tế toàn cầu nà nước ta nhất thiết phải đương đầu: Trong lĩnh vực đào tạo và phát triển nguồn nhân lực, đổi mới, cách gì đi nữa, vẫn cần tiếp tục duy trì sự phát triển năng động, ổn định và có chất lượng ngày càng tốt hơn của toàn bộ nền kinh tế.

Xin nêu ra một số vấn đề dưới đây để thấy rằng tình hình dù bức xúc thế nào, cũng không thể nôn nóng, vì cuộc sống không có liều thuốc tiên.

IV.1 Vấn đề tăng học phí

Đây đang là vấn đề thời sự nóng hổi nhất.

Phó thủ tướng Bộ trưởng Nguyễn thiện Nhân giải thích:

“… không tăng học phí đại học thì không thể có chất lượng như mong muốn. Nếu tính học phí đại học cũng dựa vào thu nhập của người dân thì sẽ rơi vào vòng bế tắc, luẩn quẩn: nước nghèo nên ngân sách cho giáo dục ít, người dân thu nhập thấp nên khả năng đóng học phí thấp, do đó chi cho đào tạo ít. Hệ quả là thiếu kinh phí xây dựng trường lớp, mua sắm thiết bị, trả lương giáo viên kém nên chất lượng đại học thấp, quy mô nhỏ. Nếu cứ thế thì những người ra trường với chất lượng đào tạo thấp làm việc hiệu quả không cao, nền kinh tế lại chậm phát triển, đất nước tiếp tục nghèo.
…Tăng học phí là một đột phá trong tài chính cho giáo dục đại học...)§

Phó thủ tướng Bộ trưởng nhiều lần nhấn mạnh tăng học phí gắn với nói “không” với dạy học không có chất lượng, với dạy những điều thị trường không có yếu cầu.

Lô-gích là như thế, song có nhiều ý kiến cho rằng thu – chi cho giáo dục còn nhiều vấn đề phải xem xét lại, thực hiện điều nói “không” đòi hỏi nhiều thời gian và nhiều biện pháp đồng bộ, không thể ngày một ngày hai có ngay được.

Ví dụ:

Ý kiến của giáo sư Đào Trọng Thi, Chủ nhiệm Uỷ ban Văn hoá Giáo dục Quốc hội :

“... Để tăng học phí, một điều quan trọng hơn nữa là phải thay đổi quan niệm về công tác giáo dục đào tạo, đặc biệt là cấp đại học. ...Tăng học phí chất lượng dạy có tăng?”. Trên thực tế, nếu tăng học phí đồng loạt thì toàn bộ chất lượng cũng tăng đồng loạt? Tôi tin là không có. ...trước khi tăng nên kiểm tra học phí được sử dụng như thế nào? Cần có đánh giá tổng kết... Báo cáo thẩm tra của Uỷ ban Tài chính - Ngân sách của Quốc hội cũng có nói, việc sử dụng học phí ở một số trường đại học chưa đúng với quy định của ngành, chẳng hạn một số trường dùng học phí để chi cho cán bộ công nhân viên, giáo viên mà không chi cho giáo dục đào tạo. ...Báo cáo đó rõ ràng đặt ra vấn đề, học phí chưa được sử dụng đúng, vậy tăng học phí có phải khó thuyết phục dư luận?”

(Tin tức Onlne, 09-10-2007)

Ý kiến của giáo sư Hoàng Tụy:

“...Kiểm toán Nhà nước vừa phanh phui bao chuyện thất thoát công quỹ, hơn nữa, đời sống người dân đang rộn lên bao chuyện bất an (tai nạn giao thông, an toàn thực phẩm, ô nhiễm môi trường, vật giá leo thang...), thì đặt vấn đề tăng học phí chưa ổn. Còn về lâu dài, muốn chấn hưng giáo dục thật sự đạt kết quả, Chính phủ và Quốc hội cần quyết liệt hơn nữa trong chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, và riêng trong ngành giáo dục cần chấn chỉnh quản lý trong nội bộ ngành, rà soát lại mọi chế độ, quy định, tổ chức, để sử dụng đầu tư của Nhà nước và nhân dân có hiệu quả hơn. Tôi tin rằng ngân sách ngành giáo dục và đào tạo được cấp, cộng thêm phần đóng góp trực tiếp của dân (bằng hai phần ba ngân sách) hoàn toàn đủ cho nhu cầu giáo dục phổ thông mà không cần tăng học phí.

...Có một số vấn đề nguyên tắc phải tôn trọng nếu thật sự ta muốn xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ. Thứ nhất, cấp phổ cập phải tuyệt đối miễn phí, hơn nữa phải tiến đến chỗ sách giáo khoa cũng được cấp hoặc cho mượn. Thứ hai, trên cấp phổ cập (từ cấp 3 phổ thông trở lên) thì trong giai đoạn nào đó trường công lập có thể thu học phí nhưng học phí phải khác nhau tùy vùng giàu, nghèo, và phải đi đôi với chính sách học bổng thực sự hữu hiệu, đồng thời về lâu dài vẫn cần tiến đến chỗ miễn phí, hoặc thu phí rất thấp chỉ để nhắc nhở trách nhiệm cho người học, hoặc Nhà nước cho vay tiền để đi học như Bộ Giáo dục và Đào tạo vừa có chủ trương rất đúng đắn.”

(Thời báo kinh tế Sài Gòn, 04-10-2007)

Trong giải quyết vấn đề có nhiều mối hệ lụy phức tạp, chọn khâu đột phá thường là cách tiếp cận cần thiết; song chính biện pháp “đột phá” lại đòi hỏi phải cân nhắc và chuẩn vị kỹ lưỡng nhiều mặt, nếu không biện pháp đột phá có nguy cơ: phá mà không đột. Ví dụ có những ý kiến nói: Chương trình đào tạo 20.000 tiến sỹ và 1 tỷ USD cho dạy nghề cho thấy thiếu tiền chưa phải là vấn đề nóng bỏng nhất đối với giáo dục, như vậy tăng học phí chưa hẳn đã là khâu đột phá... Vấn đề nóng bỏng hơn là sự phân bổ và sử dụng đúng, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực Nhà nước đang có trong tay¨…

Ngoài ra còn có một số người nêu câu hỏi: Hiến pháp quy định bậc tiểu học hoàn toàn miễn phí, tại sao vẫn có tình trạng đóng góp dưới dạng thu một lọai phí hay học phí…

Còn rất nhiều ý kiến khác nữa.

Còn nhiều câu hỏi khác nữa, tập trung vào nỗi bức xúc: Làm gì với mọi nguồn lực sẵn có trong tay sớm xây dựng nên một nền giáo dục đáng mong muốn? Không thể khoanh tay ngồi nhìn trong lúc đất nước còn nghèo.

Vì vậy, trước mắt vấn đề tăng học phí chỉ nên thực thi với tính chất là khâu đột phá sau khi đã có kế hoạch đầy đủ trên cơ sở rà soát và phân bố lại toàn bộ thu - chi cho giáo dục từ ngân sách nhà nước cũng như từ phần đóng góp của dân; chống thất thoát và tham nhũng trong ngành giáo dục; xóa bỏ những thu - chi không hợp lý trong ngành, để dồn cho nâng cao chất lượng giáo dục.

Rất đáng cả nước thắt lưng buộc bụng để mà học. Điều này có nghĩa là huy động đóng góp phải đúng và gắn liền với cắt bỏ những lãng phí. Xin nhấn mạnh: xóa bỏ những lãng phí – ví dụ những khoản chi cho những công trình nghiên cứu vô bổ, những chi tiêu sai (như báo cáo Kiểm toán Nhà nước 2007 đã nêu ra) hay những khoản đầu tư sai từ ngân sách nhà nước, cắt bỏ những chi tiêu vì chạy theo thành tích hình thức, kể cả những việc học hình thức… Làm được như vậy chắc chắn nước ta không đến nỗi quá ít tiền để phát triển giáo dục.

Tựu trung lại, tăng học phí với tinh thần cả nước thắt lưng buộc bụng để mà học là rất nên. Cả nước cần quyết tâm làm như thế để sớm ra khỏi dốt và nghèo. Nhưng phải làm đúng với tinh thần thắt lưng buộc bụng – với nghĩa thu, chi từng đồng phải tính toán chi li: lấy từ đâu, chi vào việc gì, hiệu quả thế nào. Thắt lưng buộc bụng như thế không dính dáng gì đến tính keo kiệt.

Đang còn nghèo như nước ta, chẳng lẽ không đáng bắt đầu từ trong Đảng, rộng ra đến toàn bộ hệ thống chính trị, hệ thống xã hội – từ đó dấy lên trong cả nước một phẩm chất, một ý chí phấn đấu: Thắt lưng buộc bụng cho cái học! Dẹp bỏ mọi phô trương hình thức để có tiền và thời gian cho cái học có thực chất! Cả nước học, toàn xã hội là xã hội học tập. Mọi nơi mọi cấp trong cả nước nói rất nhiều đến “truyền thống hiếu học của Việt Nam”, mong rằng lời nói sẽ trở thành hành động thắt lưng buộc bụng như thế cho cái học. Điều này đáng khao khát lắm, vì học như thế chẳng những sẽ được trí tuệ mà còn nên người, đất nước sẽ ngửng mặt được với thiên hạ. Nhưng cũng thiết tha xin đừng làm việc này như một “phong trào”!

IV. 2. Vấn đề chất lượng giảng dạy

Ít nhất có hai vấn đề lớn: Chương trình giảng dạy và người dạy.

IV. 2. 1. Về chương trình giảng dạy: Hầu như có sự đồng tình rộng rãi phải cải tiến mạnh mẽ chương trình giảng dạy của các loại trường ở tất cả các cấp, nhưng cải tiến như thế nào để không đi vào vết xe của những đợt cải cách, cải tiến đã thực hiện trong 22 năm qua, thì chưa được bàn tới một cách triệt để, thực tế là đang còn có nhiều ý kiến khác nhau. Trên báo chí, nhiều học giả Việt Nam sống trong nước và ở ngoài nước đã giới thiệu nhiều mô hình khác nhau của các nước có nền giáo dục tiên tiến (Phần Lan, Anh, Đan Mạch, Bỉ, New Zealand, Úc…). Đáng chú ý là trong những kiến nghị này đều toát lên một ý chung:

Cải cách giáo dục đang trở thành vấn đề thời sự ở nhiều nước, chứ không riêng gì nước ta, đương nhiên mỗi nước có những vấn đề riêng của mình. Điểm giống nhau là không nước nào dám khoanh tay ngồi yên.

Trong khi ở Mỹ cải cách này nhằm mục đích chính là cơ cấu lại nguồn nhân lực nước Mỹ đứng trước tình hình: xu thế “outsourcing”§ ngày càng mạnh của nền kinh tế Mỹ; hàng tiêu dùng rẻ đổ vào Mỹ ngày càng nhiều nên đòi hỏi kinh tế Mỹ phải tiếp tục loại bỏ nhiều sản phẩm; lao động rẻ nhâp cư tăng mạnh… Hướng cải cách giáo dục của mỹ chủ yếu nhằm bảo vệ khoảng cách đi trước của kinh tế Mỹ so với kinh tế của các nước đối thủ và so với cả thế giới·©. Ở nhiều nước Tây Âu mục đích chính của những nỗ lực này là đẩy mạnh kinh tế tri thức và thích ứng với đòi hỏi mới của nền kinh tế toàn cầu hóa. Trung Quốc và Ấn Độ nhằm nâng cao chất lượng đại học và đảy nhanh tiến độ tiếp cận, ứng dụng những thành tựu khoa học và công nghệ mới. Nhật chú trọng hơn nữa đến giáo dục chủ nghĩa yêu nước đáp ứng yêu cầu nước Nhật sớm trở thành một cường quốc hoàn chỉnh cả kinh tế và chính trị. Singapore – vì mục đích kinh doanh và vì muốn tiếp tục giữ vị thế quốc tế của mình - chú trọng làm mọi việc để trở thành “cái lò” đào tạo trí thức cho các nước (nhất là các nước trong khu vực), bao gồm cả việc mời những trường đại học quốc tế có tên tuổi sang mở trường trực tiếp ở Singapore, song ý đồ này không dễ gì thực hiện*… Nghĩa là nhiều quốc gia đã có nền giáo dục tiên tiến mà cũng không dám vô lo trước sự phát triển năng động của nền kinh tế toàn cầu hóa và của khoa học và công nghệ. Riêng ở Pháp, thư của tổng thống Sarkozy gửi các nhà giáo Pháp§ đặt vấn đề một cách toàn diện, bắt đầu từ đổi mới quan điểm dạy học – kể từ dạy các lớp học sinh nhỏ tuổi, sao cho nhân bản hơn, phát huy tốt hơn năng lực riêng của mỗi cá tính, tránh tình trạng dao động lúc quá nhấn mạnh cái này, khi quá nhấn mạnh cái kia; cần tuân thủ “mỗi thời kỳ lịch sử gợi ra những ước vọng riêng”… Cũng có nghĩa giáo dục phải nhằm giúp đạt được ước vọng của mỗi con người ở thời nay…

Điểm qua như vậy, chúng ta sẽ được những gợi ý gì về nội dung và chất lượng giảng dạy? Đây là điều rất đáng suy ngẫm.

IV. 2. 2. Về người dạy ở nước ta

Gần đây có nhiều tiếng nói trên báo chí thẳng thắn phê phán tình trạng chất lượng thày dạy nhìn chung trong cả nước là thấp; không hiếm trường hợp thày, cô giáo đứng nhầm bục dạy; dạy theo giáo án tủ, giáo án mượn; dạy theo theo lối mài chữ, chép chữ; tình trạng các trường thiếu thày…©

Nguyên nhân có nhiều và cũng được nêu lên khá đày đủ trên báo chí.

Một trong những giải pháp được Bộ Giáo dục và đào tạo đưa ra giải quyết vấn đề thiếu thầy nêu trên là đề án đào tạo 20.000 tiến sỹ*, căn cứ vào Nghị quyết số14/2005NQ-CP ngày 02-11-2005 của Chính phủ về “đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006 – 2020”.

Giáo sư Bùi Trọng Liễu nhận xét: “Đề án đào tạo 2 vạn tiến sĩ cho mươi năm tới lại không đủ sức thuyết phục. …Ông bộ trưởng có lý khi phát biểu muốn nâng một cách đáng kể tỉ số tiến sĩ [này]. Nhưng nếu số trường đại học có hạn thì dễ thực hiện hơn, còn nếu mở vung vãi quá nhiều đại học thì đề án trở thành bất khả thi. Bởi vì đào tạo tiến sĩ không dễ : đào tạo trong nước đã khó ; gửi ra ngoài đào tạo cũng khó, vì các trường đại học nghiêm chỉnh nước ngoài cũng tuyển một cách chặt chẽ ; không phải nghiên cứu sinh Việt Nam nào được phép đi du học cũng có thể ghi tên soạn luận án được, và ghi tên soạn luận án tiến sĩ rồi không có nghĩa là sẽ hoàn thành nổi một luận án. Đã có những trường hợp phải bỏ cuộc »¨.

Còn không ít những ý kiến khác chung quanh vấn đề người dạy và các giải pháp. Thực tế này cho thấy thiếu thày và thiếu nhiều tiến sỹ lắm, phải đào tạo thêm, nhưng đòi hỏi phải có giải pháp đúng, với những nỗ lực rất lớn và đúng hướng, phải mất nhiều thời gian mới giải quyết được*. Thế nào là giải pháp đúng? Đang ngổn ngang quá nhiều câu trả lời cho sự lựa chọn, hình như không thể nóng vội làm theo kiểu kế hoạch chỉ tiêu được·.

IV. 2. 3. Chất lượng nhà trường nước ta

Nhiều trường, nhiều trường lớn và đông, chất lượng nhìn chung thấp, nhiều nơi rất thấp.

Đó là đặc điểm chung nhất cho các loại trường từ tiểu học cho đến đại học, các học viện, viện nghiên cứu. Nguyên nhân phổ cập vẫn được coi là nghèo! Cách nghĩ này không ổn. Giả thiết rằng chúng ta giàu có hơn song nếu cứ chạy theo xu hướng phát triển đại trà như những năm vừa qua chắc gì chúng ta có được các trường viện tốt hơn?

Xin lưu ý, đã có một thời nước ta còn nghèo hơn hiện nay, trong nước còn chiến tranh, thế nhưng nền giáo dục nước ta thời đó đã đóng góp không nhỏ vào cuộc kháng chiến và mọi nhiệm vụ khác nó phải cáng đáng đối với đất nước, đã trở thành niềm tự hào lớn của đất nước, một vết son sáng ngời của chế độ chính trị nước ta thời đó với những tên tuổi bất hủ như Nguyễn Văn Huyên, Tạ Quang Bửu, Trần Đại Nghĩa, Tôn Thất Tùng, Đặng Thái Mai, Đặng Văn Ngữ.., với không ít những mái trường từ trung học phổ thông đến đại học, từ trường dạy nghề đến trường cao đẳng… đã một thời làm dạng danh nền giáo dục Việt Nam. Chính quá khứ đáng ghi nhớ này thôi thúc chúng ta phải kiên tâm đi tìm đâu là những nguyên nhân đích thực của những yếu kém hôm nay trong nhà trường của nước ta.

Bàn riêng về nhà trường, những yếu kém chính là chương trình giảng dạy, điều kiện vật chất kỹ thuật và trường sở, thư viện, sách tham khảo… Nếu so với nền giáo dục ở thời đại tin học thì còn phải nêu nhiều yếu kém khác nữa.

Kết quả thi tốt nghiệp trung học phổ thông với tinh thần chống bệnh thành tích của năm 2006 và 2007 đưa ra nhiều con số, sự việc làm choáng váng cả nước, phản ánh toàn diện thực trạng nhà trường cấp trung học phổ thông của nước ta.
Dưới đây xin tập hợp một số nhận xét rất đáng suy ngẫm về cấp đại học.

Theo số liêu thống kê, cả nước hiện nay có 322 trường đại học và cao đẳng, trong đó khoảng 1/10 là dân lập (nghĩa là trường tư). Tiến sỹ Vũ Quang Việt cho rằng như thế là số trường quá nhiều so với tỷ lệ dân số và mức thu nhập quốc dân thu nhập – cao hơn Trung Quốc 15% mà mức thu nhập của nước ta chỉ bằng ½ của Trung Quốc. Quy mô một số trường của nước ta quá lớn: “…Đại học Quốc gia TPHCM 81 ngàn, Đại học kinh tế TPHCM 34 ngàn, Đại học Huế 81 ngàn, Đại học Đà Nẵng 52 ngàn, Đại học mở Hà Nội 46 ngàn, Đại học Thái Nguyên 34 ngàn, v.v. Đây là những đại học vào hàng khổng lồ nhất thế giới. Ở Mỹ, đại học lớn nhất là Arizona State cũng chỉ có khoảng 52 ngàn sinh viên. Các đại học hàng đầu của Mỹ chỉ khoảng 15 ngàn. Tôi không hiểu trong mỗi đại học Việt Nam có bao nhiêu sinh viên là chính khoá, còn bao nhiêu là tại chức, chuyên tu, v.v.”ª

Bài “Chất lượng các trường đại học mới: S.O.S!” đăng trên báo Lao Động số 228 Ngày 02/10/2007 cho chúng ta bức tranh sau đây:

“Nhiều trường ĐH ngoài công lập thành lập cuối những năm 1990 đều phải vận dụng cách lấy GV thỉnh giảng bù đắp cho khoảng trống về đội ngũ GV. Thay vào việc đầu tư đổi mới cách dạy học, nghiên cứu khoa học, GV nhiều trường trở thành "thợ giảng". Trong số 25 trường ĐH mới thành lập có trường hiện nay chưa hề có một GV nào là GS, PGS hay có trình độ TS ...Tình trạng trường "ĐH giống trường THPT" là phổ biến, nhất là khi có hàng loạt trường mới được thành lập. Nhiều trường ĐH mới hiện nay chưa có các phòng thí nghiệm chuyên ngành. SV chủ yếu học chay, chưa có giáo trình, tài liệu tham khảo, trang thiết bị hỗ trợ dạy học...Lịch học thay đổi do lệ thuộc vào GV thỉnh giảng...”

Thực tế nêu trên cho thấy đại học mang tính đại trà kéo dài nhiều năm như vậy trong một nước nghèo, và trình độ tổ chức và trình độ quản lý đều rất hạn chế, tất yếu để lại nhiều hậu quả nghiêm trọng. Đây là vấn đề rất khó tháo gỡ, càng khó tháo gỡ nhanh, nhưng trước sau không thể tránh né được.

Ngoại ngữ đang là một trong những vấn đề bức thiết nhất và cũng là một trong những bất cập lớn nhất của nhà trường nước ta. Không thể hình dung sống trong thế giới ngày nay không có ngoại ngữ. Con đường tiếp cận mọi thành tựu văn hóa, tiến bộ khoa học và kỹ thuật của thế giới, con đường hội nhập vào kinh tế và cộng đồng thế giới đều phải đi qua cái cầu ngoại ngữ. Con đường khai thác lợi thế nước đi sau và làm giàu trí tuệ của chính mình phải có ngoại ngữ hỗ trợ. Sự thật là nền giáo dục nước nhà không quan tâm đúng mức vấn đề ngoại ngữ, lại quen lối tư duy đổ tội cho cái nghèo một cách không thể biện bạch được. Đã đến lúc phải đưa chương trình dạy ngoại ngữ trở thành một phần bắt buộc trong chương trình giảng dạy từ cấp phổ thông – khả năng cho phép đến đâu thì thực hiện tới đấy rồi mở rộng dần ra – ví dụ bắt đầu từ các vùng đô thị và kinh tế phát triển. Vì yêu cầu hội nhập và vì ở sát nền kinh tế khổng lồ Trung Quốc, học tiếng Anh và tiếng Hoa ngày càng trở nên cấp thiết*.

Riêng về mặt văn hóa, lịch sử và ngôn ngữ, phát huy truyền thống và bản sắc dân tộc, vấn đề duy dưỡng và khai thác vốn Hán nôm của quốc gia ngày càng trở nên quan trọng. Vấn đề này bị sao lãng hời hợt đến mức có nguy cơ đi tới một nền văn hóa mất gốc. Còn rất nhiều việc phải làm để văn hóa Việt trở thành tâm hồn dẫn dắt con đường đi lên của đất nước, là yếu tố gìn giữ bản sắc và sự trường tồn của dân tộc ta. Để đứng được trong cạnh tranh của toàn cầu hóa, Việt Nam chẳng những cần hiển diện trước thế giới là một nền kinh tế mà còn là một hình ảnh văn hóa của chính mình.

Trong nhà trường còn có vấn đề sách và thư viện không thể bỏ qua được.

Nếu nói tỷ lệ số lượng sách in ra so với dân số, có lẽ phải xếp hạng bậc cao hay rất cao cho nước ta, có lần báo chí nước ta đã tự xếp hạng ta là nước Đông Nam Á có cố lượng đầu sách hàng năm cao nhất trong vùng, không rõ chính xác đến mức nào. Nhưng xin hãy đến thăm bất kỳ cửa hàng sách hay vào bất kỳ thư viện nào của các trường, viện, nhìn chung sách của tác giả nước ta chất lượng thấp, không ít nội dung sao chép một cách chắp vá của bên ngoài, lạc hậu xa so với trình độ chung trên thế giới, nhiều sách rất khó tin cạy cho việc nghiên cứu nghiêm túc của người dậy cũng như người học ở tất cả các bậc học. Trong khi sách dịch cũng rất nhiều chuyện để nói. Điều khổ sở nữa là giá sách đắt quá so với số đông trong xã hội. Dạy mà không có sách tốt cho tham khảo, nghiên cứu, cập nhật thì chỉ còn cách mài giáo án – dù là giáo án vay mượn - ra mà dạy. Học mà không có sách cho tự học thì chỉ còn cách học nhồi sọ và học thuộc lòng. Tình hình thư viện nói chung của các trường, viện cũng đáng buồn như vậy. Rất nên có một chuyên đề riêng bàn tính việc tháo gỡ vấn đề sách và thư viện.

Một vấn đề nóng bỏng thường trực: Mỗi năm chỉ có khoảng 20% thí sinh thi đại học trúng tuyển, con số này là hợp lý trong điều kiện của nước ta hiện nay. Nhưng 80% không trúng tuyển sẽ đi đâu? Các trường loại khác và các trường nghề cần cho số 80% còn lại này hiện nay thế nào, bàn tay của nhà nước và bàn tay của xã hội giúp được gì cho số 80% không đỗ còn lại này?

Vân… vân…
Phần IV của bài này mới chỉ xới lên được một số vấn đề bức xúc chứ không phải là tất cả. Mong rằng cả nước sẵn sàng chấp nhận mọi đau đớn để chấn chỉnh lại nền giáo dục nước nhà, có không ít việc phải làm lại từ đầu, có nhiều vấn đề đòi hỏi phải có những giải pháp quyết liệt, nhưng không thể nôn nóng được. Làm gì cũng phải tính đến kế thừa và khai thác lợi thế nước đi sau.

Trước mắt nên vận dụng tối ưu mọi nguồn lực có trong tay, có thể phải chấp nhận một số biện pháp “tình thế” để chữa cháy tức thì vấn đề nào nào đó. Tất cả nhằm tranh thủ thời gian huy động trí tuệ của toàn thể cộng đồng dân tộc, trước hết là của các nhà khoa học, các nhà giáo dày dạn, cùng nhau thảo luận cho vỡ vấn đề. Rất cần bàn thảo rộng rãi, công khai và dân chủ trong cả nước, sao cho trong trong một hai năm tới đất nước có một kế hoạch chấn chỉnh nền giáo dục được cả nước hậu thuẫn mạnh mẽ, xây dựng được một chiến lược phát triển con người và nguồn nhân lực của nước ta theo tinh thần thắt lưng buộc bụng cho cái học để sớm thoát khỏi nghèo hèn. Đất nước ta chỉ có thể đi lên công nghiệp hóa hiện đại hóa, chỉ có thể đạt được giàu mạnh, công bằng, dân chủ, văn mình từ cái học. Càng ngày càng cấp thiết: Vạn sự tốt đẹp bắt đầu từ cái học.

Nên tổ chức trưng cầu dân ý về những vấn đề lớn, sửa những điều trong Hiến pháp có liên quan về những vấn đề hệ trọng của lĩnh vực giáo dục nước nhà.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã nhấn mạnh sự cần thiết và nêu lên nội dung phải đổi mới, kiện toàn Hội đồng giáo dục quốc gia, coi đấy là bước đi đầu tiên. Kinh nghiệm các nước về cơ quan chuyên trách cấp cao như vậy rất phong phú, làm việc có kết quả thực chất, rất đáng để nước ta tham khảo.

Chẳng lẽ cả bài viết này hơn hai chục trang giấy mà chỉ làm được mỗi cái việc điểm ra một số vấn đề bức xúc và nhắc lại đề nghị của Đại tướng Võ Nguyên Giáp?

Xin thưa: Vâng, không thể khác được.

Bởi vì trước hết nên khởi đầu từ công khai đặt lên bàn mọi vấn đề cho sự thảo luận rộng rãi, dân chủ trong cả nước. Hội đồng giáo dục quốc gia được chấn chỉnh cần bắt tay ngay vào bàn thảo mọi vấn đề đã được đặt lên bàn. Xin làm ngay. Vì mỗi ngày bây giờ được đếm bằng vàng! Nhìn ra cả thế giới còn phải nói: Vàng cũng không sánh được!

Thay cho phần kết luận

Nếu được phép nêu ra một đề nghị với nhà nước, xin nói: Yêu cầu trung tâm của nhiệm vụ phát triển con người và nguồn nhân lực nước ta nên là:

Nâng cao quyền năng con người.

Bởi vì không thể cầm tay chỉ bảo từng người trồng cây gì con gì, làm sản phẩm nào để thoát được nghèo hèn. Nhưng con người được nâng cao quyền năng về trí tuệ, về ý chí sẽ tự thắp đuốc cho mình đi lên. Con người như thế trong đời sống và lập nghiệp sẽ khó bị ai lừa gạt hay bắt nạt. Con người như thế dễ tiếp thu cái mới và không dung tha cái lạc hậu, sẽ biết cách thực hiện và bảo vệ lợi ích của mình và lợi ích cộng đồng, làm được nhiều việc lớn. Đấy là con đường hứa hẹn nhất khắc phục sự tụt hậu của đất nước. Quốc gia có những công dân đầy quyền năng như thế, quốc gia này sẽ tiến lên văn minh hiện đại. Đề nghị này khó, nhưng rất nên.

Nếu được phép nêu ra một đề nghị như thế với người dân, với thanh thiếu niên, xin nói:

Yêu tổ quốc mình với tất cả bản lĩnh người Việt Nam, với tinh thần thắt lưng buộc bụng để mà học, với tất cả sự khiêm tốn đến nhẫn nhục, với lòng kiên nhẫn như đào núi lấp biển, xây dựng ý thức hiệp đồng, gìn giữ bằng được chữ tín, tất cả để làm chủ bản thân mình và làm chủ thực sự đất nước của mình, gìn giữ và không dung tha sự vi phạm quyền làm chủ này. Có lẽ đấy là con đường mỗi công dân và cả nước ta có thể trở thành đối tác tin cạy của cả thế giới trong thời đại toàn cầu hóa ngày nay

Giáo dục, đào tạo như thế nào để nước ta có những công dân giàu quyền năng như thế? Để Việt Nam xứng đáng với lịch sử của mình và vị thế quốc tế mới
Hà Nội, ngày 13-10-2007
--------------------------------------------------------------------------------

§ Trong bài này tôi chưa dám bàn đến lĩnh vực y tế.

* Tham khảo các Văn kiện các Đại hội Đảng toàn quốc VI, VII, VIII, IX và X và nhiều Hội nghị Trung ương có liên quan.

¨ Tuy nhiên cũng nên thận trọng với đánh giá này, năm 2007 Thái Lan trong tình hình có đảo chính mà đánh giá môi trường kinh doanh vẫn được nâng cấp lên 5 bậc (do có nhiều nỗ lực cải thiện môi trường kinh doanh). WB cho rằng tuy chỉ lên 5 bậc nhưng chất lượng cạnh tranh của Thái Lan cao hơn Việt Nam nhiều.

© Tạm dịch: Người thực hiện xuất sắc công cuộc đổi mới.

* Tham khảo các bài báo, bài viết sau đây: (1) Võ Nguyên Giáp, “Đổi mới có tính cách mạng nền giáo dục và đào tạo của nước nhà”, Tuổi trẻ, 10-09-2007; (2) Hoàng Tụy, bài “Xã hội hóa hay là đẩy gánh nặng cho dân?” đăng trên Người Lao Động số ra ngày 14.8.2007 và Tia Sáng ngày 24/8/2007, bài “Học phí và đổi mới giáo dục” đăng trên TBKTSG 04-10-2007; (3)Phạm Duy Hiển, “Thử đi tìm một mô hình khác phát triển khoa học” – Tia Sáng số 19 ngày 05-10-2007; (4) Bùi Trong Liễu - Trả lời phỏng vấn ngày 06-08-2007 – toàn văn, đề nghị tìm đọc trên http://www.diendan.org/viet-nam/; Hà Nội 04-010-2007; (5) Nguyên Ngọc, “Lại xôn xao chuyện Triết lý giáo dục” – bản toàn văn bài 20-09-2007; (6) Tọa đàm tháng 9-2007 của tuần báo Doanh nhân Sài Gòn cuối tuần về giáo dục, đăng trên Tuổi trẻ ngày 29-09-2007; (7) Vũ Quang Việt, “Xin được đối thoại với Phó thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân” ngày 17-09-2007, toàn văn trên Viet-Studies.info (8) Phạm Xuân Yêm, “Xây dựng đại học đẳng cấp quốc tế ở Việt Nam”, Vietsciences 11-09-2007: (9)Mai Đình, “Chất lượng, hiệu quả trong giáo dục”; (10) Lê Việt Hưng (NCS tại Nottingham, UK) “Đề án 20.000 tiến sỹ không thực thi và quá mạo hiểm”, Dân Trí ngày 03-10-2007; (11) “Chất lượng các trường đại học mới: SOS!”, bài ghi lại của Kỳ Thanh, báo Lao Động ngầy 02-10-2007; (12) Nguyễn Trung, “Đề án 112 và 20.000 tiến sỹ…, Tuổi trẻ cuối tuần số 21-09-2007 và bài phản biện của Đá Chông: “Phê phán phải dựa trên Biết và Hiểu” đăng trên CAND ngày 25-09-2007; (13) “Về triết lý giáo dục Việt Nam”, Tạp chí Cộng Sản 26-09-2007; (14) Nguyễn Xuân Hãn, Đại học Quốc gia Hà nội, Bài “Nhưng quan trọng hơn vẫn là đứng trên lập trường nào, vì lợi ích của ai?”, Hà nội 01-10-2007; (15) Tham khảo thêm thư của Tổng thống Pháp N. Sarkozy ngày 04-09-2007 gửi những người làm công tác giáo dục ở Pháp (bản do anh Phạm toàn dịch)… vân vân…

© Tham khảo bài “Xin được đối thoại với Phó Thủ tưởng Nguyễn Thiện Nhân về vấn đề giáo dục” của tiến sỹ Vũ Quang Việt, Diễn đàn online, 17-09-2007.

* Tìm xem: Phạm Duy Hiển, “Thử đi tìm một mô hình khác phát triển khoa học” Tia Sáng số 19 ngày 05-10-2007.

§ (tham khảo thêm bài “Xin được đối thoại…” của Vũ Quang Việt đã dẫn, và bài “Chất lượng nguồn nhân lực quá yếu”, của Nguyễn Xuân Hãn, báo Lao Động ngày 06-10-2007).

* (ví dụ: định thay bản chữ cái ABC, abc bằng bảng E,e; tình trạng bất cập của chương trình chuẩn, giáo án chuẩn; kế hoạch đào tạo 20.000 tiến sỹ; một số chương trình nghiên cứu Kx; sáng tác ra học vị phó giáo sư; việc ồ ạt xây dựng trường đại học tại nhiều tỉnh - trong khi đó bằng đại học của nước ta không được quốc tế công nhận, cả nước chưa có một trường đại học nào so sánh được với đại học Thái Lan Chulalongkorn, nếu so với đẳng cấp quốc tế khoảng cách này còn xa nữa., vân vân…).

· Vụ xử án tham nhũng đất đai ở Đồ Sơn là một bê bối điển hình. Huyện Hải Lăng, Quảng Trị, giao đất tái định cư cho dân xã Hải Lâm chạy lũ ngay trên khu vực còn bom đạn thời chiến tranh nằm trong lòng đất chưa được rà xoát bốc đi và hàng năm vẫn xảy ra tai nạn sát thương – Tuổi Trể ngày 11-10-2007! Vân vân…

* Xin lưu ý: Các nước tư bản phát triển, bên cạnh phát triển hệ thống trường công các cấp với nguồn chi lớn từ ngân sách nhà nước, không hạn chế phát triên hệ thống tường tư, nhưng toàn bộ vấn đề giáo dục phải tuân thủ những quy định chung của nhà nước pháp quyền, xã hội dân sự, nguyên tắc phi lợi nhuận, không thể mạnh ai nấy làm; tuy vậy vấn đê mất bình đẳng về cơ hội đối với học sinh và thanh niên ở những nước này vẫn là vấn đề nan giải.

§Toàn văn giải thích xem: Sài Gòn Giải Phóng 10-09-2007

¨ Tìm đọc thêm trên “Dân trí” ngày 11-10-2007, http://www1.dantri.com.vn/giaoduc-khuyenhoc/2007/10/200997.

§ Tạm dịch: Đưa nguồn lực ra khai thác, phát triển sản xuất và dịch vụ cho mình ở bên ngoài lãnh thổ quốc gia (sâu rộng hơn so với ý nghĩa đầu tư trực tiếp ra nước ngoài).

· © Nên tìm đọc diễn văn nhậm chức của bà hiệu trưởng Đại học Harvard, Drew G. Faust, ngày 12-10-2007 để hiểu thêm những vấn đề đặt ra cho giáo dục ở Mỹ, cảnh báo tính lỗi thời của nền đại học Mỹ... VSI – 15 Oct 2007.

* Xem bài “Singapore’s Failing Bid for Brainpower” của Simon Montlake, Far Eastern Economic Review October 2007. Đại ý: Singapore muốn vời đại học Harvard sang cùng với thương hiệu của trường này nhưng chưa thành.

§ Toàn văn xem: http://media.education.gouv.fr/file/41/3/6413.pdf

© Xem: “Lên bục giảng bằng giáo án... vay mượn!” Vietnamnet, 00:06' 08/10/2007 (GMT+7); bài

“Thiếu giảng viên là giáo sư, phó giáo sư ở trường ĐH mới”, Người Lao động ngày 02-10-2007…

* Tham khảo bài của tác giả Đá Chông đăng trên báo CAND 25-09-2007 giải thích vì sao cần đào tạo 20.000 tiến sỹ.

¨Tham khảo bài « Không cung với cầu rởm », đăng ngày 30/1/2007 trên Vietnanmnet. http://vietnamnet.vn/giaoduc/vande/2007/01/659380/ và Hà Nội Mới đăng lại ngày 31/1/2007 : http://www.hanoimoi.com.vn/vn/47/118003/ .

* Nền giáo dục Ấn độ có nhiều thành tựu quan trọng, song cũng có nhiều vấn đề rất giống tình hình ở nước ta, nhưng cách tiếp cận khác ta; tham khảo bài: In India, Economic Success Leaves Universities Desperate for Professors, Đăng tài trên Viet-studies. Info ngày 10-10-2007.

· Nhân đây xin nhắc lại chuyện cũ của Trung Quốc: Một thời hàng vạn học sinh Trung Quốc ra nước ngoài học, song số trở về rất ít, Đặng Tiểu Bình đã phải tuyên bố: Ai học xong về là giúp nước, ai học xong ở lại cũng là vì nước! Nhiều năm qua đi mãi cho tới gần đây kinh tế Trung Quốc lên, cơ hội làm ăn trong nước lớn và thông thoáng, số du học trở về nước ngày một đông dần, họ làm những việc họ lựa chọn chứ không phải theo kế hoạch nhà nước phân công. Thực tế này của Trung Quốc cho ta nhiều điều để suy nghĩ.
ª Vũ Quang Việt: “Xin được đối thoại với Phó thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân”, toàn văn trên Viet-Studies.info ngày 17-09-2007.

* Đai học Quốc gia TPHCM là trường lớn, song chỉ có 11,6% giảng viên môn tiếng Anh có chứng chỉ TOEFL, 2 năm học gần đây điểm thi môn tiếng Anh của sinh viên của trường nhìn chung đạt 4/10 nghĩa là dưới trung bình (Tuổi trẻ ngày 17-10-2007). Còn các trường tầm cỡ thấp hơn thì sao?